Mười hai kinh mạch cũng gọi là chính kinh. Vì trong cơ thể có tâm, can, tỳ, phế, thận, tâm
bào là 6 tạng; có đảm, vị, đại trường, tiểu trường, bàng quang, tam tiêu là 6 phủ, cộng 12
tạng phủ. Mỗi một tạng phủ đều có một kinh phụ thuộc nó, cộng có 12 kinh nên gọi là chính
kinh. Tên gọi của chính kinh đều lấy tên tạng phủ của nó mà đặt như tâm kinh, đảm kinh, vị
kinh v.v...
Theo "Học thuyết âm dương" trong Đông y mà nói thì 6 tạng đều thuộc âm: Phế và tỳ là thái
âm, tâm và thận là thiếu âm, can và tâm bào là quyết âm; sáu phủ đều thuộc dương. Tiểu
trường và bàng quang là thái dương, đảm và tam tiêu là thiếu dương, vị và đại trường là
dương minh.
Sáu tạng và đường tuần hành của âm kinh thuộc về nó đều ở mặt âm của tứ chi (mặt trong
của chi). Sáu phủ và đường tuần hành của dương kinh thuộc về nó đều ở mặt dương của
chi (mặt ngoài của chi). Mức độ âm dương nhiều ít của tên đường kinh là do vị trí đường
kinh trên chi thể có mức độ nhiều ít của mặt dương, âm mà định. Độ lớn dần của âm dương
theo chiều hướng vận động chung của vũ trụ, bên trái lớn dần theo chiều ngược kim đồng
hồ, bên phải lớn dần theo chiều thuận kim đồng hồ. Ở mặt dương từ dương minh, qua thiếu
dương tới thái dương, ở mặt âm từ thiếu âm, qua quyết âm tới thái âm. Đồng thời, do kinh
mạch âm dương phân bố ở tứ chi cho nên đường tuần hành ở chi trên gọi là thủ kinh, tất cả
là thủ tam âm kinh, thủ tam dương kinh; đường tuần hành ở chi dưới gọi là túc kinh, tất cả là
túc tam âm kinh, túc tam dương kinh, gộp chung cả lại là 12 kinh, cho nên thường gọi là 12
kinh mạch chính.
A. Đường tuần hành của 12 kinh mạch
Đường tuần hành của 12 kinh mạch có thể chia ra làm 4 loại:
- Thủ tam âm kinhlà thủ thái âm phế kinh, thủ quyết âm tâm bào kinh, thủ thiếu âm tâm
kinh, cả ba kinh mạch này đều đi từ ngực ra theo mặt âm của chi trên đến đầu chót các
ngón tay.
- Thủ tam dương kinh là thủ dương minh đại trường kinh, thủ thiếu dương tam tiêu
kinh, thủ thái dương tiểu trường kinh. Cả ba kinh mạch này đều từ đầu chót ngón tay đi
ven theo mặt dương của chi trên lên đến đầu.
- Túc tam dương kinh là túc dương minh vị kinh, túc thiếu dương đảm kinh, túc thái
dương bàng quang kinh. Cả ba kinh mạch này đều từ đầu đi qua lưng trên, ven theo
mặt trước mặt bên và mặt sau của cạnh ngoài chi dưới, xuống đến gót chân.
- Túc tam âm kinh là túc thái âm tỳ kinh, túc quyết âm can kinh, túc thiếu âm thận kinh.
Cả ba kinh mạch này đều từ đầu ngón chân, ven theo mặt trước, mặt trong và mặt sau
của cạnh trong chi dưới đi lên đến bụng.
B. Thứ tự nối tiếp của các đường kinh và giờ tuần hành kinh khí
Hoạt động kinh khí phụ thuộc vào hoạt động công năng của tạng phủ, hoạt động công năng
của tạng phủ lại tuân theo một chu trình thời gian trong ngày, người ta đã ghi nhận được chu trình hoạt động đó thành bài ca như sau: Phế dần, đại mão, vị thìn cung. Tỳ tỵ, tâm ngọ, tiểu
mùi trung. Thân bàng, dậu thận, tâm bào tuất. Hợi tam, tý đảm, sửu can thông.
Nay đem diễn giải thành bảng theo giờ thông dụng như sau:
Giờ Dần (từ 3-5 giờ sáng)
Giờ Mão (từ 5-7 giờ sáng)
Giờ Thìn (từ 7-9 giờ sáng)
Giờ Tỵ (từ 9-11 giờ sáng)
Giờ Ngọ (từ 11-13 giờ trưa) -
Giờ Mùi (từ 13-15 giờ trưa) -
Giờ Thân (từ 15-17 giờ chiều)
Giờ Dậu (từ 17-19 giờ tối)
Giờ Tuất (từ 19-21 giờ tối) -
Giờ Hợi (từ 21-23 giờ đêm)
Giờ Tý (từ 23-01 giờ đêm)
Giờ Sửu (từ 01-03 giờ sáng)
C. Biểu lý tương phối của 12 kinh mạch
- Thủ thái âm phế kinh tuần hành
- Thủ dương minh đại trường kinh tuần hành
- Túc dương minh vị kinh tuần hành
- Túc thái âm tỳ kinh tuần hành
Thủ thiếu âm tâm kinh tuần hành
Thủ thái dương tiểu trường kinh tuần hành
- Túc thái dương bàng quang kinh tuần hành
- Túc thiếu âm thận kinh tuần hành
Thủ quyết âm tâm bào kinh tuần hành
- Thủ thiếu dương tam tiêu kinh tuần hành
- Túc thiếu dương đảm kinh tuần hành
- Túc quyết âm can kinh tuần hành
Trong 12 kinh mạch thì cứ một âm kinh phối hợp với một dương kinh, như vậy gọi là biểu lý
tương phối (cũng gọi là âm dương tương phối). Kinh mạch tương phối khi tuần hành ở ngón
tay, ngón chân thì nối tiếp nhau, vì nội tạng mà nó sở thuộc cũng cùng quan hệ tương hỗ
ảnh hưởng. Trên lâm sàng, huyệt vị ở bản kinh còn có thể dùng để trị bệnh ở một kinh khác
cùng tương phối với nó. Như thủ dương minh đại trường kinh và thủ thái âm phế kinh cùng
biểu lý, lấy huyệt Xích trạch ở phế kinh để chữa ho hắng, lại cũng trị được bệnh lỵ. Lại như
túc thái âm tỳ kinh và túc dương minh vị kinh cùng biểu lý, lấy huyệt Túc tam lý ở vị kinh có
thể chữa được đau dạ dày, lại cũng chữa được ỉa chảy. Những ví dụ trên đã nói lên rằng âm
kinh và dương kinh có quan hệ biểu lý tương phối rất mật thiết.
Bảng tương phối của 12 kinh mạch
Thủ thái âm phế kinh tương phối với Thủ dương minh đại trường kinh
Thủ thiếu âm tâm kinh tương phối với Thủ thái dương tiểu trường kinh
Thủ quyết âm tâm bào kinh tương phối với Thủ thiếu dương tam tiêu kinh
Túc thái dương tỳ kinh tương phối với Túc dương minh vị kinh
Túc thiếu âm thận kinh tương phối với Túc thái dương bàng quang kinh
Túc quyết âm can kinh tương phối với Túc thiếu dương đảm kinh
D. Đầu, cuối của 12 kinh mạch và chủ trị
Như trên đã nói qua, 12 kinh mạch có đường tuần hành nhất định và các kinh đều phản ánh
bệnh tật ở bản tạng hoặc bản phủ, phần này nói đến đường đi cụ thể và chủ trị một số bệnh tật.
1. Thủ thái âm phế kinh (H.8)
a. Cấu trúc : Gồm có 11 huyết, cả hai bên là 22 huyệt. Kinh mạch bắt đầu từ trung tiêu (dạ
dày, Trung quản) hướng xuống đại trường có một đường lạc nối, rồi lại từ đại trường đi
trở lại một đường nông ngoài đi lên trên cổ dạ dày, ven theo cổ dạ dày xuyên lên quan cơ
hoành cách, vào phế tạng, lại từ phế tạng lên đến cạnh hầu, lại đi ngang ra đến phía dưới
hố đòn, ven theo cạnh trong cánh tay trên đi xuống qua hốc khuỷu tay, ven theo cạnh
trong phía trước xương quay, đến cổ tay ở thốn khẩu, từ thốn khẩu đi đến mô cái, ven
theo mô cái đi đến cạnh đầu ngón cái (Thiếu thương).
Mạch nhánh, từ sau cổ tay (Liệt khuyết) phân ra hướng theo phía mu bàn tay đi thẳng đến
đầu ngón trỏ ở cạnh trong là huyệt Thương dương.
b. Quan hệ tạng phủ : Kinh này từ ngực ra tay, thuộc phế (bản kinh thuộc phế tạng), đường
lạc sang đại trường (kinh này và kinh đại trường cùng nối tiếp nhau), đi qua hoành cách,
có quan hệ với thận và vị.
c. Chủ trị : Ho hắng hen suyễn, hụt hơi, khái huyết, hầu họng sưng đau, trúng gió, tức ngực,
hố trên xương đòn và cạnh trong phía trước cánh tay đau, tê, bả vai buốt lạnh.
Hình 8. Đường tuần hành của kinh Thủ thái âm phế
2. Thủ dương minh đại trường kinh (H.9)
a. Cấu trúc: Gồm có 20 huyệt, hai bên là 40 huyệt. Kinh mạch tuần hành bắt đầu từ (huyệt Thương dương) ở cạnh trong đàu ngón tay trỏ, đi theo cạnh ngón vào khe xương bàn 1-2 (Hợp cốc) rồi đi lên qua cạnh trước cẳng tay, qua cạnh ngoài khuỷu tay, cạnh ngoài cánh
tay trên, đến mỏm quạ, đi lên phía sau vai giao hội vào huyệt Đại chùy ở đốc mạch, lại
gặp ngược lại hướng về phía lõm ức xuống phổi, rồi xuyên qua cơ hoành, tới đại trường.
Mạch nhánh, từ lõm ức lên đến cạnh cổ (sau kinh vị) thông qua mặt sau (sau Đại nghinh)
tiến vào trong hàm dưới, lại chuyển ngược ra ngoài lên rãnh môi trên, thông qua huyệt Địa
thương ở kinh vị, hai bên giao hội lại ở huyệt Nhân trung (chính giữa rãnh Nhân trung),
kinh mạch bên trái đi về phía bên phải, kinh mạch bên phải đi về phía bên trái, riêng rẽ đi
lên đến cạnh cánh mũi (là huyệt Nginh hương) thì dứt.
b. Quan hệ tạng phủ : Bản kinh từ tay lên đến đầu, thuộc đại trường, đường lạc sang phế,
lại có quan hệ trực tiếp với vị.
c. Chủ trị : Đau bụng, sôi bụng, ỉa chảy, lỵ, hầu họng sưng đau, răng đau, mũi chảy nước
trong, chảy máu mũi, đau trước vai, đau ngón tay trỏ, sốt nóng hoặc rét run.
3. Túc dương minh vị kinh (H. 10)
a. Cấu trúc : Gồm 45 huyệt, cả hai bên là 90 huyệt. Kinh mạch tuần hành bắt đầu từ rãnh
môi mũi ở cạnh mũi (Nghinh hương), từ cạnh mũi đi lên đến khóe mắt phía trong, đi
ngược lại qua chính giữa phía dưới ổ mắt đi xuống qua cạnh ngoài của cánh mũi tiến vào
đến lợi trên, rồi chuyển về qua vòng môi, xuống dưới giao hội với điểm giữa môi dưới
(Thừa tương) chuyển lui qua ven cạnh sau phía dưới xương hàm dưới, đi đến phía dưới
trước góc hàm (Giáp xa), hướng đi lên tản ra trước tai, đi qua cung gò má ở trước tai, ven
theo bờ tóc lên đến góc trán (Đầu duy), cuối cùng ở trước trán giao hội với đốc mạch ở
huyệt Thần đình.
Hình 9 . Đường tuần hành của kinh Thủ dương minh đại trường
Mạch nhánh ở trên mặt, từ giữa hàm dưới (Đại nghinh) hướng xuống cổ cạnh hầu (Nhân nghinh), ven theo cạnh hầu tiến vào lõm ức; đi xuống phía trong qua cơ hoành tới vị và liên hệ với tỳ tạng.
Mạch ở lõm ức đi thẳng từ chỗ lõm của xương đòn xuống cạnh trong của đầu vú, đi thẳng
xuống cạnh ngoài rốn 2 thốn, đến phía trên xương mu ở rãnh háng, chỗ huyệt Khí xung.
Mạch nhánh miệng dưới của dạ dày đi sâu trong ổ bụng, hướng xuống huyệt Khí xung rồi
cùng gặp nhau đi xuống, thẳng đến phía trên đùi ở mặt trước (là huyệt Bễ quan), đi tiếp
ven theo mặt cao của cơ tứ đầu đùi, xuống qua xương bánh chè, ven theo cạnh ngoài của
mặt trước xương chày, phía dưới phân bố xuống mu bàn chân, đến cạnh ngoài đầu ngón
chân thứ hai.
Mạch nhánh ở xương chày, từ chỗ dưới xương bánh chè 3 thốn ( Túc tam lý) phân ra một
nhánh cạnh đi xuống đến cạnh ngoài ngón giữa, chỗ khe nối hai ngón chân.
Mạch nhánh ở bàn chân, từ mu bàn chân (Xung dương) phân ra đi xuống đến cạnh trong đầu ngón cái ( Ẩn bạch).
b, Quan hệ tạng phủ bi Kinh này từ đầu xuống chân, thuộc vị, đường lạc sang tỳ, có quan hệ trực tiếp với tâm, đại trường và tiểu trường.
Hình 10. Đường tuần hành của kinh Túc dương minh vị
c. Chủ trị ; Sôi bụng, trướng bụng, đau dạ dày, nôn mửa, chảy máu mũi, liệt mặt, hầu họng
sưng đau, đau ngực bụng, đau ở những nơi có đường kinh đi qua, sốt cao.
Huyệt vị ở kinh này ngoài tác dụng chữa cục bộ và xung quanh, cái chính yếu là chữa
bệnh ở dạ dày và ruột. Phàm thân thể suy nhược, vị khí kém, đều có thể châm huyệt của
túc dương minh vị kinh. Dương minh là kinh nhiều khí, nhiều huyết, chủ làm "tươi mát"
các gân, vì vậy huyệt vị ở kinh có thể chữa các chứng tê bại, gân co rút.
4. Túc thái âm tỳ kinh (H. 11)
a. Cấu trúc có 21 huyệt, cả hai bên là 42 huyệt. Kinh mạch tuần hành bắt đầu từ cạnh
trong đầu ngón chân cái (Ẩn bạch), ven theo đó đi lên qua bờ trước mắt cá trong, phân bố
đến phía sau cẳng chân, men theo cạnh sau xương chày, chéo qua mặt trước của túc
quyết âm can kinh, đi lên qua cạnh trong khớp gối đến phía trước cạnh trong xương đùi,
đi lên cạnh ngoài bụng (cách đường trục giữa bụng là 4 thốn) vào tỳ tạng, có liên lạc thêm
sang vị, lại hướng đi lên qua cơ hành, lồng ngực, qua hai bên hầu họng, đến cuống lưỡi,
tản vào phía dưới lưỡi.
Mạch nhánh ở vị, từ dạ dày phân ra đi lên thông qua cơ hoành, mạch khí đi luôn tới trong
tâm tạng.
b. Quan hệ tạng phủ :inh này đi từ chân lên đến đầu, thuộc tỳ, đường lạc sang vị, có thêm
quan hệ trực tiếp với tâm, phế, đại trường và tiểu trường.
Hình 11. Đường tuần hành của kinh Túc thái âm tỳ
c. Chủ trị : Trường bụng, đau dạ dày, nôn mửa, ỉa chảy, đầy hơi, vàng da, cứng lưỡi, đau
tức cạnh trong đầu gối và đùi.
Phàm chữa rối loạn tiêu hóa, phân nát, đau dạ dày, ngoài những huyệt trên kinh vị ra, cần
lấy thêm huyệt ở kinh từ mới nâng cao hiệu quả. Ngoài ra cũng còn chủ trị chứng thấp,
bệnh phụ nữ.
5. Thủ thiếu âm tâm kinh (H.12)
a. Cấu trúc : Gồm 9 huyệt, hai bên là 18 huyệt. Kinh mạch bắt đầu từ trong tim (hệ thống tim và các mạch có liên quan tới tạng phủ khác), hướng xuống thông qua hoành cách cùng
nối tiếp với kinh thủ thái dương tiểu trường.
Mạch nhánh của hệ tâm, từ hệ tâm phân ra đi lên cạnh thực quản, lên đến hệ mắt (là
mạch có quan hệ tốt tới mắt và não).
Mạch của hệ tâm đi từ tim thẳng đến phế tạng, đi chéo ra mặt dưới hố nách ven theo mặt
sau của cạnh trong cánh tay, qua khuỷu tay, qua chỗ khớp cổ tay, chỗ xương trụ và
xương đậu cao lên, tiến vào bàn tay ở khe bàn ngón 4-5 rồi ra cạnh trong ngón tay út ở
đầu ngón ( Thiếu xung).
b. Quan hệ tạng phủ : Kinh này từ ngực ra tay, thuộc tâm, đường lạc sang tiểu trường, có
thêm quan hệ trực tiếp với phế và thận.
c. Chủ trị : Đau tim, miệng khát, mắt vàng, sườn đau hoặc cạnh trong bàn tay đau, lòng bàn
tay nóng.
Hình 12. Đường tuần hành của kinh Thủ tiếu âm tâm
6. Thủ thái dương tiểu trường kinh
a. Cấu trúc : Gồm 19 huyệt, hai bên là 38 huyệt. Kinh mạch tuần hành bắt đầu từ cạnh ngoài
đầu ngón tay út (thiếu trạch), ven theo ngoài bàn tay, đến chỗ cổ tay, qua giữa lồi cầu
xương trụ lên đến phía sau cẳng tay, qua khuỷu tay ở chõ giữa mỏm khuỷu tay và mỏm
khớp xương cánh tay, đi ven lên cạnh ngoài phía sau cánh tay, đến mặt sau khớp vai, đi
cạnh ngoài phía sau cánh tay, đến măt sau khớp vai, đi nông cả phía trên và dưới gờ
xương bả vai, giao hội với huyệt Đại chuỳ ở đốc mạch, rồi gập lại phía trước tiến vào hõm
vai, đi xuống nối với đường lạc của tâm trạng, ven thực quản đến dạ dày, tơi tiểu trường.
Mạch nhánh ở hõm vai, từ hõm vai (sau kinh đai trường) lên má (sau huyêt Giáp xa) đến
khoé măt ngoài giao hội với túc thiếu dương đảm kinh ở huyệt Đồng tử liêu, gập lại đến
phia trước tai (Thính cung) rồi vào trong tai.
Mạch nhánh ở má, từ góc măt phân ra hướng về phía dưới ổ mắt tới khoé trong mắt chỗ
hốc mũi.
b. Quan hệ tạng phủ : Kinh này từ tay lên đầu, thuộc tiêu trường, đường lạc sang tâm, có
thêm quan hệ trực tiếp với vị.
c. Chủ trị : Tai điếc, mắt vàng, cổ sưng, họng đau, bụng dưới đau, vai và phía sau cánh tay
đau.
Hình 13. Đường tuần hành của kinh Thủ thái dương tiểu trường
7. Túc thái dương bàng quang kinh (H.14)
a. Cấu trúc: Gồm 67 huyệt, hai bên là 134 huyệt. Kinh mạch tuần hành bắt đầu từ khoé mắt
trong (Tinh minh) lên thẳng trước trán đến sau đỉnh đầu (Bách hội), lại từ đỉnh đầu đến
góc trước tai. Kinh đi thẳng từ đỉnh đầu thông vào não rồi trở lại, hướng ra phía sau chia
làm hai nhánh.
Mạch nhánh thứ nhất đi theo cạnh trong bắp thịt bả vai dựa theo gần sát cột sống, (cách
đều cột sống là 1,5 thốn) đi thẳng xuống đến thắt lưng, theo cạnh cột sống thắt lưng mà
liên lạc vào thận tạng, vào bàng quang. Từ lưng bụng đi xuống ven theo cột sống 1,5 thốn
qua mông, tiến xuống lõm khoeo sau đầu gối.
Mạch nhánh thứ hai từ sau gáy ven theo cột sống cách đều 3 thốn (cạng trong xương bả
vai) đi xuống qua mông, ven theo phía sau cạnh ngoài đùi đi thẳng xuống giao hội với
nhánh thứ nhất trong hố lõm khoeo, từ đấy lại qua bụng chân, qua phía sau mắt cá ngoài
chân, đến chỗ lồi xương bàn số 5, đến cạnh ngoài đầu ngón út chân (Chi âm).
b. Quan hệ tạng phủ : Kinh này từ đầu đến chân, thuộc bàng quang, đường lạc sang thận,
còn có thêm quan hệ trực tiếp với não và tâm.
c. Chủ trị : Đau đầu, đau cột sống, đau lưng, đau đùi, đau chân, bắp chân co rút, sốt rét, đau
mắt, ra gió chảy nước mắt, tiểu tiện không thông, đái dầm, và bệnh tật ở những nơi
đường kinh đi qua ở chi dưới. (Bố du là du huyệt của lục phủ ngũ tạng trên đường kinh
bàng quang vùng lưng chủ trị bệnh biển của tạng phủ theo tên nó).
<
Hình 14 . Đường tuần hành của kinh Túc thái dương bàng quang
8. Túc thiếu âm thận kinh (H.15)
a. Cấu trúc: Gồm 27 huyệt, hai bên là 54 huyệt. Kinh mạch tuần hành bắt đầu từ phía dưới
ngón chân út, đi chéo vào giữa cgỗ lõm trước lòng bàn chân (Dũng tuyền) qua phía dưới
chỗ lõm của xương thuyền, qua phía sau của mắt cá chân đi xuống gót chân, từ đó đi lên
theo cạnh trong bắp chân, qua cạnh trong hố khoeo sau khớp gối, lên đến phía sau cạnh
trong đùi, tiến vào ổ bụng, ven cột sống, thông vào thận, liền sang bàng quang.
Mạch đi thẳng ở thận tạng, hướng từ thận đi lên qua gan và cơ hoành vào phổi, đi lên hai
bên cạnh hầu, phân bố chỗ cuống lưỡi.
Mạch nhánh ở phổi. Từ phế tạng phân ra cùng quan hệ vơi tâm trạng, phân chia ra trong
lồng ngực, cùng nối tiếp với thủ quyết âm tâm bào kinh.
b. Quan hệ tạng phủ : Kinh này đi từ chân lên đến ngực, thuộc thận, đường lạc sạng bàng
quang. Có thêm quan hệ trực tiếp với can, phế, tâm.
c. Chủ trị : Đái dầm, đái són, di tinh, liệt dương, kinh nguyệt không đều, ho ra máu, hen, lưỡi
khô, hầu họng sưng đau, đau lưng, phù thũng, xương sống và phía sau cạnh trong đùi
đau, mệt mỏi không có sức, lòng bàn tay nóng.
Hình 15. Đường tuần hành của kinh Túc thiếu âm thận
9. Thủ quyết âm tâm bào kinh (H.16)
a. Cấu trúc: Gồm 9 huyệt, cả hai bên là 18 huyệt. Kinh mạch tuần hành bắt đầu từ trong
ngực ra, lại vào tới tâm bào lạc, hướng xuống, qua cơ hoành xuống bụng, liên quan đến
thượng tiêu, trung tiêu, hạ tiêu.
Mạch nhánh ở ngực, từ trong ngực phân bố ra xương sườn, đến dưới hố nách, đi ra giữa
cạnh trong cánh tay, vào giữa khớp khuỷu tay, ra cẳng tay, ở giữa cơ gấp cổ tay, cơ quan
và cơ dài tiến vào giữa lòng bàn tay, ven theo cạnh trong ngón giữa ra đầu ngón tay.
Phân nhánh ở giữa long bàn tay, từ huyệt lao cung phân ra ven theo ngón tay đeo nhẫn
(ngón 4), ở cạnh ngoài ngón (huyệt Quan xung).
b. Quan hệ tạng phủ : Kinh này đi từ ngực ra, thuộc về tâm bào, đường lạc sang tam tiêu,
c. Chủ trị : Lòng bàn tay phát nóng, cẳng tay và khớp khuỷu co rút, hố nách sưng, sườn
ngực đầy tức, tim đập mạnh, mặt đỏ.
Hình 16 . Đường tuần hành của kinh Thủ quyết âm tâm bào
10. Thủ thiếu dương tam tiêu kinh (H.17)
a. Cấu trúc : Gồm 23 huyệt, hai bên là 46 huyệt. Kinh mạch tuần hành từ đầu cạnh ngón
ngoài ngón tay đeo nhẫn ( Quan xung), đi lên giữa khe xương bàn 4 – 5 trên mu bàn tay,
ven theo lên giữa cổ tay, tiếp tục đi lên phía ngoài cẳng tay, giữa xương trụ và xương
quay, đi lên qua mỏm khuỷu, lên cạnh ngoài cánh tay đến vai, giao hội với túc thiếu
dương đảm kinh ở mặt sau, phía trước tiến vào lõm vai, phân bố xuống giữa hai vú, mạch
khí chia ra nối liền với tâm bào, hướng xuống qua cơ hoành, từ ngực đến bụng, vào tới
thượng tiêu, trung tiêu, hạ tiêu.
Mạch nhánh ở ngực, từ chỗ Chiên trung phân ra, đi lên qua lõm vai, qua cạnh cổ, phân bố
đến sau tai, một hướng đi thẳng ra góc trên tai, lại cong xuống má mặt, đến dưới ổ mắt.
Mạch nhánh ở tai, từ sau vánh tai tiến vào trong tai, lại đi ra phía trước vành tai giao hội
với mạch nhánh ở ngực tai góc má mặt rồi đến cạnh ngoài lông mày, cuối cùng là góc
ngoài khoé mắt.
b. Quan hệ tạng phủ : Thuộc tam tiêu, đường lạc sang tâm bào.
c. Chủ trị : Bụng trướng, phù nề, đái dầm, tiểu tiện khó, đau đầu, u tai, đau đầu họng, đau góc ngoài mắt, cạnh ngoài vai và cánh tay đau.
Hình 17 . Đường tuần hành của kinh Thủ thiếu dương tam tiêu
11. Túc thiếu dương đảm kinh (H.18)
a. Cấu trúc : Gồm 44 huyệt, hai bên là 88 huyệt. kinh mạch bắt đầu tuần hành từ khoé mắt
bên ngoài, đi ra trước tai, hướng lên đến góc đầu, lại hướng xuống phía sau tai rồi ngược
lên cạnh đầu, ven theo đầu cổ đến kinh thủ thiếu dương ở mặt trước, đến tận phiá sau mi
trên thì lại quay trở lại, giao với thủ thiếu dương kinh ở mặt sau, rồi xuống vào hõm vai.
Mạch nhánh ở tai, từ sau tai đi qua huyệt Ế phong của thủ thiếu dương kinh đi vào trong
tai, lại ra trước tai, đến phía sau khoé mắt ngoài, lại từ góc phía mắt ngoài tách ra, hướng
đến chỗ huyệt Đại nghinh, tại đây hợp chung với phía sau kinh thủ thiếu dương tam tiêu đến phía dưới ổ mắt, lại gập xuống qua chỗ huyệt Giáp xa để đến cổ, và nhập vào gặp
mạch chỗ lõm vai, từ lõm vai vào lồng ngực, qua cơ hoành, nối liền cùng can tạng, về
đảm, đi ven theo phía trong xương sườn, xuống rãnh háng ở hai bên bụng dưới chỗ huyệt
khí xung, qua háng, gồ mu chui vào mấu chuyển lớn xương đùi.
Mạch đi thẳng ở lõm vai, từ lom vai đi xuống đến trước, hố nách men theo cạnh ngực qua
xương sườn 11 xuống dưới nhập vào mạch trước ở mấu chuyển lớn xương đùi, từ đó đi
xuống, ven theo cạnh ngoài xương đùi, cạnh ngoài khớp gối, đi xuống mặt trước xương
mác, đến đầu dưới xương mác (Tuyệt cốt), đi hướng mặt trước mắt ca ngoài, ven trên mu
bàn chân và kết thúc ở cạnh ngoài đầu ngón chân 4 (Túc khiếu âm).
Mạch nhánh ở u bàn chân, từ huyệt Túc lâm khấp trên mu bàn chân tách ra ven theo khe
xương cổ chân 1 và 2 đi ra sau góc móng ngón cái (Đại đôn).
b. Quan hệ tạng phủ : Thuộc đảm, đường lạc sang can, có thêm quan hệ trực tiếp với tâm.
c. Chủ trị : Đau đầu, đau góc ngoài ổ mắt, phát sôt.
Hình 18. Đường tuần hành của kinh Túc thiếu dương đảm
12. Túc quyết âm tam kinh (H.19)
a. Cấu trúc : Gồm 14 huyệt, hai bên là 28 huyệt. Kinh mạch tuần hành bắt đầu từ cạnh ngoài
góc móng ngón cái đi lên hướng mu bàn chân, qua phía trước mắt cá trong khoảng hơn
một thốn, đi lên qua huyệt Tam âm giao đến chỗ cách mắt cá trong 3 thốn thì giao nhau
với kinh thúc thái âm tỳ rồi đi theo phía sau kinh thúc thái âm tỳ lên đến cạnh trong đầu
gối, ven theo cạnh trong đùi lên đến gồ mu, vòng qua âm, dương vật đến bụng dưới, đi
theo cạnh dạ dày, vào tới can tạng và cùng nối liền với đảm, kế tiếp xuyên qua cơ hoành
đến xương sườn lên ven khí quản, cạnh sau hầu tiến vào trong mũi, sang hố mắt, hướng
lên ra trước trán hợp lại với đốc mạch ở đỉnh đầu.
Mạch nhánh ở hệ mắt, từ hệ mắt đi xuống phía sau của góc hàm vòng phía trong môi.
Mạch nhánh ở gan, từ can tạng chia ra, qua cơ hoành, đến phế tạng.
b. Quan hệ phủ tạng : Thuộc can, đường lạc sang đảm, có thêm quan hệ trực tiếp với phế,
vị, thận và não.
c. Chủ trị : Đái dầm, tiểu tiện khó, đàn bà đau bụng dưới, đau lưng, ỉa chảy, sán khí, bệnh
tinh thần. Kinh này trị bệnh ở âm vật, dương vật là chính: cũng trị các bệnh ở cả mắt và
sườn.
Hình 19. Đường tuần hành của kinh Túc quyết âm can
|