Lúc đầu, ông đã theo phép “ Tri nhiệt cảm độ trắc định pháp” của lương y Xích
Vũ, người Nhật Bản, dùng cây hương đo mức độ thời gian biết thấy nóng trên các
tỉnh huyệt của người được đo. Sau đó, ông dùng máy đo nhiệt độ da do Liên Xô chế
tạo, đo trực tiếp nhiệt độ da ở tỉnh huyệt, thay cho phép đo bằng cây hương, từ
đó gọi là máy đo nhiệt độ kinh lạc. Kết quả so sánh nhiệt độ kinh lạc giữa hai
lần đo đã đã phản ảnh đúng tình trạng sinh lý cơ thể trắc thủ. Kết qủa này tương
đương với kết quả từ các loại máy đo chỉ tiêu sinh lý hiện đại trong khoa, hoặc
ở những cơ quan nghiên cứu ngoài quân y có kết hợp với đề tài. Nhưng thời gian
thao tác đo nhiệt độ kinh lạc nhanh hơn, công cụ đo đơn giản hơn, do đó giá
thành rẻ hơn. Tiến tới, lương y Lê Văn Sửu cùng các cán bộ trong khoa SLLĐQS như
: Giáo sư Tiến sỹ Tô Như Khuê, Phó Giáo sư Tiến sỹ Trần Trí Bảo, Phó Giáo sư
Tiến sỹ Nguyễn Văn Nghị, kỹ thuật viên Trần Duy Dưỡng, và Bác sỹ Dương Quốc Tuấn
ở Viện Dinh Dưỡng quốc gia đã mở rộng phạm vi nghiên cứu. Họ tiến hành kiểm tra
nhiều người bệnh khác nhau trong Bệnh viện Quân y 103, kiểm tra nhiều học viên
của Học viện Quân y, nhiều học sinh phổ thông Trường Cát Linh, nhằm tìm nguồn
gốc bệnh và tình trạng sinh lý, tâm lý theo lý luận cổ truyền Phương Đông bằng
phép đo nhiệt độ kinh lạc. Kết luận, mọi người đều cho rằng : “Đo nhiệt độ kinh
lạc có thể được coi là một trong những chỉ tiêu sinh lý chính xác.”
Năm 1984 và sau đó, bác sỹ Nguyễn Tân Phong thuộc Viện Tai-Mũi-Họng Trung
ương đã làm đề tài “ Chẩn đoán nguyên nhân chóng mặt bằng phương pháp đo nhiệt
độ kinh lạc”, tiếp theo là đề tài “ Chẩn đoán nguyên nhân loạn cảm họng bằng
phương pháp đo nhiệt độ kinh lạc”, ông đều dùng phương pháp đo nhiệt độ kinh lạc
của lương y Lê Văn Sửu để tìm số liệu. Kết quả, cả hai đề tài trên được giới
chuyên môn đánh giá cao, được báo cáo ở nhiều hội nghị chuyên nghành, và đã đăng
tải trên nhiều tạp chí khoa học. Từ đó, những chiếc máy đo nhiệt độ da đơn giản
này đã trở thành máy đo nhiệt độ kinh lạc,
Cuối năm 1998, bà Nguyễn Thị Kim Dung, cán bộ thuộc Bộ Công an (địa chỉ:
Số 2, Ngõ 13/16, Dốc Tam Đa, Thụy Khuê, Hà Nội) được người quen đưa đến nhờ
lương y Lê Văn Sửu khám chữa bệnh. Từ phép đo tính thủ công, ông đã tìm ra bệnh,
yêu cầu bà sang Viện Nội Tiết xác chẩn. Sau khi chữa cho bà, số đo kinh lạc thay
đổi, bà lại sang Viện Nội Tiết khám lại, kết quả tương ứng với số đo kinh lạc
thay đổi. Cảm thông với ước vọng của lương y Lê Văn Sửu, bà đã tìm người chế ra
máy đo đồng bộ 24 điểm cùng lúc và viết phần mềm tính toán thay cách tính thủ
công. Kết quả là, tại Đại hội Ngành Sinh lý học toàn quốc tháng 12/1999, máy đo
và phần mềm đã được giới thiệu. Phần mềm này thuộc phạm vi tính toán, có thêm
nội dung so sánh giữa 2 lần đo để đánh giá kết quả.
Tháng 6/2000, buổi sinh hoạt của Hội Sinh lý học Việt Nam, chúng tôi được
phép giới thiệu máy đo và phần mềm tính toán do kỹ sư điện tử… Thắng và cộng sự
chế tạo. Hội nghị đã công nhận phương pháp rất có giá trị (xem kết luận về buổi
sinh hoạt của Hội Sinh lý học ngày 16/6/2000 ). Hội nghị đã đề nghị hoàn thiện
máy, viết thêm phần mềm chẩn bệnh, cụ thể một số bệnh danh cho các bác sỹ và
lương y tiện dùng.
b. Năm 2001, Cố nghệ sỹ điêu khắc Quân đội Nguyễn Minh Đỉnh có người con
là tiến sỹ tin học đã viết phần mềm tính toán theo sách của lương y Lê Văn Sửu
hướng dẫn, có kèm theo phần so sánh giữa hai lần đo và đề ở cuối bảng số đo
“Phần mềm của Minh Đỉnh tặng Lương y Lê Văn Sửu”. Theo ước nguyện của ông Minh
Đỉnh, lương y Lê Văn Sửu đã cho phép những anh chị em môn sinh đã có máy tính
được phép sao phần mềm về dùng, phần mềm này có thể đo bằng máy đo đơn chiếc ghi
lại nhiệt độ 24 tỉnh huyệt, sau đó nạp vào máy tính và in ra kết quả tính toán.
c. Cuối năm 2002, nhận thấy máy đo đồng bộ không có khả năng hoàn thiện,
lương y Lê Văn Sửu đã bàn với môn sinh Phạm Vũ Quyền đi tìm kỹ sư Thắng để nhờ
làm máy 1 đầu đo kết nối với máy tính và viết lại phần mềm tính toán. Kết quả
là, do anh Phạm Vũ Quyền, có lòng bỏ thời gian và tiền bạc, cùng với kỹ sư Thắng
đã hoàn thành ý định (phần mềm này có tiến bộ hơn phần mềm anh Thắng làm cho bà
Kim Dung và phần mềm của ông Minh Đỉnh tặng.). Máy đo này do kết nối với máy
tính, kết quả đo được nạp ngay vào máy (không phải ghi tay) nên nhanh hơn và bản
in ra có ghi biểu, lý, hàn, nhiệt của các kinh. Máy và phần mềm này đã được Bệnh
viện Hòe Nhai (Hà Nội) mời thử nghiệm, khám đo tại chỗ cho bệnh nhân suốt 3
tháng (từ tháng 4-6/2003 và do hai anh em đồng môn Phạm Vũ Quyền và Nguyễn Huy
Đương tiến hành). Kết quả xem số đo chẩn bệnh của anh em này rất tốt nên nhân
dân rất tin tưởng. Hết 3 tháng, 2 anh em lại mang máy về làm tại nhà.
d. Tháng 10/2004, môn sinh Đinh Lai Thịnh, kỹ sư điện tử, Giám đốc Trung tâm
Máy văn phòng 65B, Tuệ Tĩnh, Hai Bà Trưng, Hà Nội, quyết định giúp lương y Lê
Văn Sửu hoàn thành yêu cầu mà Hội Sinh lý học Việt Nam đề ra: Hoàn thành phần
mềm chẩn bệnh có đủ phần lý luận cơ bản của Đông y gồm: Biểu, lý, hàn, nhiệt,
hư, thực, âm, dương, khí, huyết, tạng phủ ở các mức sinh lý, bệnh lý, lại thêm
15 bệnh danh y học hiện đại. Kỹ sư Đinh Lai Thịnh đã cùng với Trường Đại học
Bách Khoa Hà nội, Trung tâm thông tin quân sự Bộ quốc phòng nghiên cứu và hoàn
thiện phần mềm và máy Đo Kinh lạc. Phần mềm này được viết dành cho cả 3 loại máy
đo: (1) Máy đơn chiếc, đo tay ghi số rồi nạp vào cho máy tính toán và in ra kết
quả chẩn bệnh; (2) Dùng cho máy 1 đầu đo có kết nối với máy tính truyền thẳng
kết quả đo vào máy rồi tính toán và in ra kết quả chẩn bệnh; (3) Dùng cho máy đo
đồng bộ 24 đầu đo trên 24 tỉnh huyệt cùng lúc chuyển vào cho máy tính toán và in
ra kết quả chẩn bệnh.
Phần mềm này đã được Công ty Tư vấn, Sở hữu công nghiệp và Chuyển giao công nghệ
(P&TB) thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam thay mặt lương y Lê Văn
Sửu đăng ký bản quyền tại Việt Nam theo đúng pháp luật hiện hành. Ngày
03/12/2004 bản quyền tác giả “ Chẩn bệnh bằng phương pháp Đo nhiệt độ kinh
lạc”đã được Bộ văn hoá thông tin cấp cho lương y Lê Văn Sửu.
Tháng 10/2007 phần mềm “ Chẩn bệnh bằng phương pháp Đo nhiệt độ kinh lạc”
phiên bản 2.0 đã được Kỹ sư Đinh Lai Thịnh hoàn thành theo tài liệu của cố Lương
y Lê văn Sửu. Phần mềm này về phần lý luận cũng giống phần mềm phiên bản 1,
nhưng có thêm 47 chứng bệnh đường kinh. Tổng số có 140 bệnh danh cả Đông y và y
học hiện đại, kèm theo mỗi bệnh danh có Biện chứng, triệu chứng, bệnh lý, cách
chữa ( dùng thuốc và châm cứu) cho từng bệnh danh. Phần mềm mới này còn kèm theo
cả bảng tra Đông dược ( tính vị, quy kinh, hiệu dụng , cách dùng ...). Đi đôi
với việc hoàn thiện phần mềm, những chiếc máy Đo nhiệt độ kinh lạc cũng luôn
luôn được cải tiến theo công nghệ hiện đại để đáp ứng theo yêu cầu hiện đại hoá
y học cổ truyền.
Năm 2005, Sở Khoa học và công nghệ tỉnh Hà Tây cùng Sở Y tế Hà Tây đã xét
duyệt đề tài “ ứng dụng Phương pháp Đo nhiệt độ kinh lạc trong chẩn đoán một số
bệnh nội khoa”. Đề tài do Trung tâm y tế thị xã Hà Đông thực hiện và đã được
nghiệm thu tháng 12/2005.
Năm 2006, Sở Khoa học và công nghệ tỉnh Vĩnh Phúc cùng
Sở Y tế Vĩnh Phúc đã xét duyệt đề tài “ ứng dụng Phương pháp Đo nhiệt độ kinh
lạc trong khám và chữa bệnh bằng Đông Y” . Đề tài do bệnh viện y học cổ truyền
Vĩnh Phúc thực hiện và đã được nghiệm thu tháng 12/2006.
Năm 2009,Sở Khoa học và Công nghệ Hà Nội đã xét duyệt đề tài " Nghiên cứu thiết kế, chế tạo máy đo nhiệt độ 25 kênh dùng trong YHCT" hay còn gọi là Máy đo kinh lạc TS -2010. Đề tài do kỹ sư Đinh Lai Thịnh làm chủ nhiệm đề tài và đã được nghiệm thu tháng 11 năm 2010. Đề tài được hội đồng khoa học đánh giá xuất xắc.
Năm 2011 , Máy đo kinh lạc vinh dự được nhận giải ba, giải thưởng sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam.Giải thưởng do Liên hiệp các hội Khoa học & Kỹ thuật Việt Nam kết hợp với Bộ khoa học & Công nghệ tổ chức, giải VIFOTEC.
Năm 2012, Máy đo kinh lạc được nhận cúp vàng trong hội chợ kỹ thuật quốc tê International Techmart 2012.
Năm 2015, Máy đo kinh lạc được Cục sở hưũ trí tuệ - Bộ khoa học và công nghệ cấp Bằng độc quyền sáng chế.
Hiện nay, phần mềm và máy “Đo nhiệt độ kinh lạc chẩn bệnh” đã được triển khai
bằng cả ba cách: (1) Dùng máy đo đơn chiếc, đo tỉnh huyệt ghi số, nạp vào máy
tính toán và in ra kết quả chẩn bệnh. (2) Dùng máy 1 đầu đo kết nối với máy
tính, máy tính toán và in ra kết quả chẩn bệnh.
(3) Dùng máy 25 đầu đo, cùng một lúc đo 24 điểm huyệt của 12 đường kinh trên mười đầu ngón tay, ngón chân sau đó kết nối với máy tính thông qua phần mềm để đưa ra kết quả chẩn đoán và theo dõi bệnh. Các loại máy này hiện đang được
triển khai tại một số địa điểm sau:
Hà nội, Hà tây, Hoà bình, Quảng ninh, Bắc ninh, Hưng yên, Nam định, Nghệ an, Hà
tĩnh,Quảng nam, Huế, Đà nẵng, Bình Thuận, Đồng nai, Cần Thơ, Bến Tre, Sóc Trăng, Gia lai, Long An, Đà Nẵng, Đà Lạt,Hưng Yên, Thanh Hoá, TP Hồ CHí Minh,Yên Bái, Vĩnh Phúc,Lai Châu,Thái Bình,Hậu Giang, Tiền Giang,Lâm Đồng,Đắc Lắc, Hải Dương,Thái Nguyên, California (Mỹ), Kiep ( Ucraina), Lahabana (Cuba), Viên Chăn (Lào) ...
|