1. VẤN CHẤN: (HỎI)
Vấn chẩn là phần
trọng yếu trong tứ chẩn, thông qua vấn chẩn kỹ lưỡng thường có thể đến chẩn đoán
chính xác.
Nội dung của vấn
chẩn, nói chung giống như Tây y, cần hiểu rõ nơi đau của người bệnh, thời gian
phát bệnh, nguyên nhân, diễn biến, tóm tắt tình hình chạy chữa (bao gồm cả uống
thuốc và phản ứng, khái quát sinh hoạt của người bệnh, nghiện ngập, thói quen ăn
uống, tình hình suy nghĩ, tiền sử gia đình).
Vấn chẩn của Đông y
có những chỗ khác, trước đây những điểm chính của vấn chẩn khái quát thành câu
ca: Thập vấn: Nhất vấn hàn nhiệt; nhị vấn Hãn; tam vấn ẩm thực; tứ vấn tiện; ngũ
vấn đầu thân; lục vấn hung phúc; thất lung, bát kiệt, cụ đương biện; cửu vấn cựu
bệnh, thập vấn nhân; tái kiêm phục dược tham cơ biến phụ nữ ứng vấn kinh, đới,
sản; tiếu nhi đương vấn ma, chẩn, ban. Tạm dịch là: 1 hỏi nóng rét; 2 hỏi mồ
hôi; 3 hỏi ăn, uống; 4 hỏi đái, ỉa; 5 hỏi đầu, mình; 6 hỏi ngực, bụng; 7 hỏi
điếc tai; 8 hỏi khát nước; 9 hỏi bệnh cũ; 10 hỏi nguyên nhân gây bệnh. Lại hỏi
thêm uống thuốc đã có chuyển biến. Đàn bà phải hỏi hành kinh, khí hư, chửa đẻ;
Trẻ em thì hỏi sởi đậu. Có thể tham khảo thêm trong đó. Ngày nay đem nội dung
chẩn đoán bằng hỏi khái quát như sau:
A. HÀN NHIỆT VÀ MỒ HÔI:
Cần hỏi rõ có hay
không phát sốt, bị rét hay nóng, bị năng hay nhẹ, đặc điểm của cơn sốt, có hay
không có mồ hôi, thời gian ra mồ hôi, tính chất và nhiều ít của mồ hôi. Quy tụ
những chẩn đoán như sau:
- Lúc mới phát bệnh:
phát sốt, ớn lạnh là ngoại cảm biểu chứng; phát sốt nhẹ, ớn lạnh nhiều không có
mồ hôi là ngoại cảm phong hàn biểu chứng; phát sốt nặng, ớn lạnh nhẹ, có mồ hôi
là ngoại cảm phong nhiệt biểu chứng.
- Lạnh một cơn, nóng
mọt cơn, gọi là hàn, nhiệt vãng lai. Nếu như thời gian phát bệnh rất nhanh có
kèm theo đắng miệng, khô họng, váng đầu, hoa mắt, tức ngực, sườn đầy chướng, là
bán biểu, bán lý.
- Phát sốt không ớn
lạnh, có mồ hôi, miệng khát, táo bón là lý thực
nhiệt chứng.
- Bệnh mãn tính, về
chiều sốt nhẹ, ngực và lòng bàn tay, bàn chân nóng (ngũ tâm phiền nhiệt), gò má
hồng, mồ hôi khô, ra mồ hôi trộm là âm hư phát nhiệt. Bình thường mà sợ lạnh,
ngắn hơi, mệt mỏi, tự ra mồ hôi là dương hư.
B. ĐẦU, THÂN, NGỰC, BỤNG:
(Chủ yếu hỏi rõ nơi
đau, tính chất và thời gian đau).
- Đầu đau, đầu choáng, đau không dứt, đau ở hai bên thái
dương, phát sốt ớn lạnh, phần nhiều là ngoại cảm. Khi đau, khi không, thường kèm
theo choáng váng, không nóng, lạnh phần nhiều là nội thương lý chứng. Một bên
đầu đau (thiên đầu thống) thường do nội phong hoặc huyết hư. Ban ngày đau đầu,
làm mệt thì đau nặng hơn là do dương hư. Sau giờ Ngọ đâu đầu là âm hư. Ban đêm
đau đầu là huyết hư. Đau đầu chóng mặt, mắt đỏ, miệng đắng, thường là can, đảm
hoả thịnh. Đầu váng mà tim hồi hộp, ngắn hơi, yếu đuối, thường là khí huyết hư
nhược. Đột nhiên đầu váng, thường là thực chứng; Váng đầu lâu ngày là hư chứng.
Đầu ê ẩm, nặng căng như bỏ vào trong bao thường là thuộc thấp nặng.
- Mình đau: Toàn
thân đau buốt, phát sốt ớn lạnh là ngoại cảm. Bệnh lâu ngày mà mình đau là khí
huyết bất túc. Vùng lưng đau thường là thuộc thận hư. Các khớp, cơ bắp, gân,
xương ở tứ chi đau đớn, tê bại, hoặc các khớp sưng phù, nơi đau cố định hoặc di
động là phong hàn thấp bại.
- Ngực đau: đau ngực
phát sốt, ho ra mủ máu thường là phế ung (sưng phổi có mủ). Đau ngực sốt về
chiều, ho khan, ít đờm, trong đờm lẫn máu là lao phổi (phổi kết hạch). Ngực đau,
hướng đâu lan ra xương bả vai, hoặc xương sườn phía sau đau nhói, tự thấy cảm
gác nén vùng tim là ngực bại (hung bại) - cần chú ý đó không phải là tim cắn
đau, mà sườn dưới đau là can khí bất thư.
- Bụng đau: đau bụng
trên, nôn khan, nôn ra nước dãi trong, gặp lạnh đau dữ dội là vị hàn. Bụng trên
chướng, ợ chua, hôi mùi mốc là thực trệ (ăn không tiêu). Đau quanh rốn, lúc đau
lúc không, khi đau nổi hòn cục là đau do giun đũa. Đau bụng phát sốt, ỉa chảy
hoặc đi lỵ ra mủ máu, lý cấp hậu trọng (quặn bụng và nặng lỗ đít) là thấp nhiệt
thực chứng. Đau bụng ê ẩm liên miên, phân nát, sợ lạnh, tứ chi mát, là hàn thấp
hư chứng.
Nói tóm lại: đau dội
là thực chứng, đau kéo dài là hư. Sau khi ăn đau tăng là thực, sau khi ăn giảm
đau là hư. Đau dữ dội kịch liệt, nơi đau cố định, sờ vào đau tăng hoặc sợ là
thực. Đau lâm râm, không cố định, sờ nắn giảm đau hoặc ưa sờ là hư.
C. ĂN UỐNG:
Hỏi rõ tình hình ăn
uống của người bệnh như: thèm ăn hay không, số lượng ăn, khẩu vị, phản ứng sau
khi ăn và có khát hay không ?
- Trong khi bị bệnh
mà vẫn ăn uống bình thường là vị khí chưa bị tổn thương. Không muốn ăn mà ợ hơi
là có tích trệ. Ăn nhiều, hay ăn là vị có thực hoả (ý nghĩa có khác với triệu
chứng của đái đường, của chứng tiêu khát).
- Miệng khát, thích
uống mát là vị nhiệt thương âm. Miệng khát thích uống nóng là vị dương bất túc.
Miệng nhạt không khát, hoặc là biểu chứng đang chuyển vào lý, hoặc là dương hư
hàn thịnh lý chứng. Miệng khô không muốn uống là tỳ hư thấp thịnh.
- Miệng đắng là can,
đảm có nhiệt. Miệng chua là trường, vị tích trệ. Trong cổ muốn phát ra ngọt là
tỳ có thấp nhiệt. Miệng nhạt là hư chứng.
D. ĐẠI TIỂU TIỆN:
Hỏi rõ số lần đái ỉa, tính chất, trạng thái phân, có ỉa,
đái ra máu hay không ?
- Đại tiện bế kết,
khô khan, khó ỉa, phát sốt là nhiệt chứng. Bệnh kéo dài, người mới đẻ, người già
mà táo bón là thuộc khí hư hoặc tân hao.
- Ỉa phân nát, trước
khi ỉa không đau bụng là tỳ vị hư hàn. Tảng sáng đau bụng ỉa chảy (còn gọi là
ngũ canh tiết) là thận dương hư. ỉa ra như nước, phóng ra như bắn, có cảm giác
nóng rát hậu môn là vị, trường có nhiệt. ỉa ra phân thối, nhão nhoét, nhiều bọt,
bụng đau, ỉa xong giảm đau là thực (ăn) trệ.
- Ỉa ra máu mủ, quặn
đau như mót rặn, bụng đau phát sốt là thấp nhiệt hạ lỵ. ỉa ra phân đỏ, đen như
keo sơn, thường là xuất huyết đoạn trên đường tiêu hoá (dạ dày xuất huyết).
Trong phân dính máu hồng tươi là xuất huyết đoạn dưới đường tiêu hoá (trực tràng
xuất huyết). Cả hai nơi xuất huyết và nguyên nhân của chúng cần được kiểm tra kỹ
hơn nữa.
- Nước tiểu nhiều mà
trong thường là hư hàn; trong mà són nhiều lần hoặc đi không cầm là khí hư; nếu
kèm vẩn đục là thấp nhiệt.
- Trong đêm đi đái nhiều, hay đái dầm là thận hư. Đái són,
đái gấp, đái đau, đái khó hoặc kèm theo máu mủ, cát sỏi, là chứng lậu. Miệng
khát, đái nhiều, uống nhiều, thân thể gầy mòn rất nhanh là chứng tiêu khát. Đột
nhiên phát sinh bí đái, hoặc chỉ đái són được vài giọt, mùi nước đái rất hôi,
bàng quang đau đớn dữ dội mà nóng lên là thực chứng. Nước tiểu dần dần giảm ít,
thậm chí không đủ đái, sắc mặt trắng nhợt, lưng đùi, tay, chân xanh, lạnh, là hư
chứng.
Đ. NGỦ
- Mất ngủ: là khó
vào giấc ngủ, lại dễ tỉnh, và không nhiều mê mộng. Đêm khó vào giấc ngủ, ăn uống
giảm dần, mệt mỏi, uể oải, hồi hộp hay quên, tinh thần hoảng hốt, thuộc tâm tỳ
lưỡng hư, thường do suy nghĩ quá độ gây nên. Hư phiền không ngủ được, sốt về
chiều, ra mồ hôi trộm, lưỡi hồng ít tân (nước) mạch tế, sác, thường là âm hư.
Sau khi bệnh nặng hoặc về già khí huyết đều hư, thường dẫn đến mất ngủ. Đêm ngủ
không yên, ngủ ít, dễ tỉnh, tâm phiền, miệng lưỡi mọc mụn, đầu lưỡi hồng, là tâm
hoả cang thịnh... Mất ngủ, nhiều mộng, đau đầu, miệng đắng, tính tình hấp tấp,
dễ cáu là can hoả cang thịnh. Trong khi mộng nằm kêu lên là đảm khí hư hoặc vị
nhiệt.
- Ngủ nhiều: thần
mệt, chi mỏi mà ngủ nhiều là khí hư, ăn xong uể oải, muốn ngủ là tỳ khí bất túc.
Sau khi khỏi bệnh ham ngủ là chính khí chưa hồi phục. Mình nặng mạch hoãn, ngủ
nhiều là thấp thắng
E. TAI ĐIẾC - TAI Ù
Thận, can, đàm và
tai có quan hệ gắn bó; điếc dấy mạnh lên là thực chứng can, đảm hoả vượng, điếc
lâu là thận hư, khí hư. Trong lúc có ôn bệnh mà xuất hiện ta điếc là chỉ chứng
nhiệt ta thương âm.
Tai ù kèm theo tim
hồi hộp, đầu váng là thuộc hư chứng; có tức ngực, đau sườn, miệng đắng, phân khô
rắn mà buồn nôn oẹ là chứng thực.
G. ĐẶC ĐIỂM ĐÀN BÀ - TRẺ EM
Đối với phụ nữ và
trẻ em, trừ những việc hỏi như trên ra lại cần hỏi thêm những nội dung sau đây
nữa:
- Đối với người bệnh
đàn bà cần hỏi rõ đã có chồng hay chưa, kinh nguyệt (bao gồm cả tuổi bắt đầu có
kinh), chu kỳ, tình trạng kinh nguyệt nhiều ít, có đau hay không, mùi và mầu sắc
khí hư, và tình hình sản dục (số lần chửa đẻ, có khó đẻ hay đẻ rơi không).
Kinh nguyệt đến
trước kỳ: số máu nhiều, màu đỏ sẫm và sền sệt, miệng khô, môi hồng là huyết
nhiệt, Kinh nguyệt tím đen, có máu cục là thực nhiệt.
Kinh nguyệt chậm sau
kỳ: số máu ít, mầu hồng nhạt mà lỏng sắc mặt vàng úa là huyết hư, nhưng chi
lạnh, mặt trắng là hư hàn. Máu tím bầm thành cục, bụng dưới đau, sợ sờ, hoặc có
cục sưng là khí trệ huyết ứ. Kinh nguyệt có mùi hôi là chứng nhiệt, có mùi tanh
là chứng hàn.
Khí hư trong, lỏng
mà tanh là hư hàn, vàng đặc là thấp nhiệt.
Sau khi đẻ mà sản
dịch không dứt, kèm có đau bụng, sợ sờ nắn là huyết ứ.
- Đối với người bệnh
là trẻ em: cần hỏi rõ quá trình lớn lên, lướt quá về những bệnh đã mắc; thóp thở
khép kín, đi, chạy, nói sớm hay chậm, đã tiêm phòng hay chưa, đã qua sởi, thuỷ
đậu hay chưa và các cách đã bổ dưỡng.
2. VỌNG CHẨN (NHÌN)
Vọng chẩn là thông
qua quan sát thần, sắc, hình thái để nói tình trạng chung; thông qua xem lưỡi
biến hoá để nói thêm một bước tính chất của bệnh tật. Trẻ em dưới 3 tuổi lại xem
đường vân ngón tay để bổ trợ cho chẩn đoán.
A. TRẠNG THÁI CHUNG
Tinh thần nét mặt:
tinh thần ủ dột, ánh mắt không có thần, phản ứng tình cảm trên nét mặt chậm, sắc
mặt mờ tối không phản chiếu ánh sáng là biểu hiện chính khí đã tổn thương. Sắc
mặt khô xác, môi nhợt là huyết hư. Sắc mặt vàng úa là tỳ hư. Bệnh lâu dài sắc
mặt đen tối là thận hư. Hai gò má ửng hồng về chiều, sốt về chiều là âm hư nội
nhiệt. Trẻ em mắt đỏ mà chung quanh môi xanh là can phong. Ở trong các bệnh: sắc
cứ sáng tươi là bệnh còn nhẹ, mờ tối là bệnh đã nặng.
Trẻ em bệnh ôn nhiệt
hoặc cấp, mãn kinh phong thấy nhăn cầu vận động không linh hoạt, có khi cố định,
nhìn trợn ngược, nhìn thẳng đơ, nhìn lệch là thuộc can phong nội động, hoặc đàm
nhiệt vướng tắc gây ra, đó là chứng kinh phong. Trẻ em bị mắc bệnh mà khóc không
có nước mắt, lỗ mũi khô mà không có nước mũi, là chứng nặng; Sắc mũi trắng bợt
là khí huyết hư nhược.
Hình thái: Hình thể
gầy mòn, chi thể mỏi mệt, da dẻ khô khan là khí huyết hư nhược. Nếu béo mà ăn ít
là tỳ hư có đàm. Hình gày ăn ít là trung tiêu có hoả.
Da dẻ toàn thân và
niêm mạc phát vàng là hoàng đản. Sắc vàng úa, tươi như da quất, phát sốt là
dương hoàng (cấp tính hoàng đản); sắc mặt vàng nhạt, mờ như khói hun, không sốt
hoặc sốt nhẹ là âm hoàng (mãn tính).
Toàn thân phù thũng,
phát bệnh nhanh chóng, các khớp đau buốt, hoặc có ớn lạnh, sợ gió là thuỷ khí
nội đình, phong tà ở ngoại nhiễu. Mình nặng, tinh thần đặc biệt khốn quẫn là
thấp nặng. Đau lưng, chi lạnh, sắc mặt tối là thận dương hư. Chi dưới phù thũng,
sắc mặt vàng úa, ăn uống không ngon, bụng chướng, phân lỏng, nát là tỳ dương hư.
Da dẻ xuất hiện ban chẩn (lốm đốm là chẩn, thành mảng là
ban) là nội nhiệt, ở trong bệnh ôn nhiệt thì đó là dấu hiệu chủ yếu chỉ nhiệt đã
nhập huyết phần. Ban chẩn sắc tươi sáng, đỏ đắn là bệnh tình còn nhẹ, mờ ám là
bệnh tình đã nặng.
Phụ: Phép vọng chẩn về bệnh giun đũa: dùng phép vọng chẩn
để chẩn đoán bệnh giun đũa thời xa xưa đã được ghi lại, gần đây có người quan
sát hơn một nghìn trường hợp trẻ em bị bệnh giun đũa đã chứng minh các phương
pháp chẩn đoán là có ý nghĩa nhất định. Trẻ em bị bệnh giun đũa thể hiện như
sau:
- Trên mặt lưỡi xuất hiện ban đỏ, ven bờ rõ nét, hình tròn
thường lỗi khỏi mặt lưỡi như đầu vú, nơi chốn không nhất định, số lượng không
kể.
- Niêm mạc môi dưới xuất hiện những hạt tròn, thương là màu
xám, nốt chẩn nhỏ như đầu mũi kim, số lượng không kể.
- Củng mạc xuất hiện xanh chàm, hình tam giác, tròn, hoặc
bán nguyệt, phân bố ở trên lưỡi trên đỉnh mao mạch (huyết quản nhỏ) không lồi
khỏi bề mặt.
- Trên mặt lưỡi xuất hiện ban trắng, hình tròn, rất rõ
ràng, ở giữa trắng nhạt, không lồi khỏi bề mặt.
Đây là bốn loại dương tính thể chứng, có khi đơn độc, hoặc
cùng xuất hiện, thường thấy nhất là ban đỏ trên lưỡi. Thể chứng ít, nhiều thường
là bằng chứng của số lượng giun nhiều ít ở trong bụng. Tỷ lệ đúng của vọng chẩn
so với xét nghiệm phân (bao gồm cả phép đếm trứng) là rất cao. Cách này không
cần chuẩn bị khác, giản tiện, sử dụng, chắc chắn.
B. THIỆT CHẨN ( XEM LƯỠI )
Thiệt chẩn là bộ phận trọng yếu trong chẩn đoán đông y.
Đông y quan sát cái lưỡi thật tỷ mỷ, từ trong thiệt chẩn mà tìm thấy thực hư
của tạng phủ, thịnh suy của khí huyết, hao tổn của tân dịch và tính chất của
ngoại tà. Do đó ở một mức độ nhất định có thể giúp cho phán đoán tính chất, mức
nông sâu và hướng phát triển của bệnh tật.
B.a. Chất lưỡi
Chất lưỡi chỉ là cái
thể của lưỡi, nó cùng với các tạng phủ có quan hệ mật thiết. Loại quan hệ này
có đặc điểm ở từng chỗ khác nhau. Đầu lưỡi chủ về phản ánh bệnh biến của tim
phổi, như đầu lưỡi đỏ là tâm hoả thượng viêm. Ven lưỡi chủ về phản ánh bệnh biến
của gan mật, như ven lưỡi có ban tím là can uất (trên lâm sàng thường thấy một
số người bệnh gan thì ven lưỡi có điểm ban xanh tím, hoặc tĩnh mạch dưới lưỡi
trương phồng). Phần giữa lưỡi chủ yếu phản ánh bệnh biến tỳ, vị. Cuống lưỡi chủ
yếu phản ánh bệnh biến của thận.
Trên lâm sàng quan
sát chất lưỡi và theo biến hoá 4 mặt: mầu sắc, độ ẩm thấp, hình thái và đồng
thái để phân tích.
- Độ ẩm thấp và màu
sắc chính của lưỡi thường là: hồng nhạt và ẩm nước.
- Sắc lưỡi nhạt hơn
bình thường là huyết hư, dương hư hoặc hàn chứng. Sắc nhạt mà không rêu là khí
huyết lưỡng hư: nhạt mà ẩm trơn là hàn. Loại sắc lưỡi này gọi là lưỡi trắng
nhạt, tức là hồng ít, trắng nhiều. Chứng bệnh là dinh dưỡng trở ngại, bần huyết
và một số bệnh nội tiết như phù niêm dịch (dịch dẻo dính) đều thấy lưỡi trắng
nhạt.
Sắc lưỡi hồng tươi
mà khô là âm hư; hồng tươi mà không rêu là âm hư hoả vượng ở cuối kỳ ôn nhiệt,
lao phổi; cường năng tuyến giáp trạng và bệnh đái đường cũng thấy lưỡi âm hư.
Chất lưỡi mầu hồng thắm hoặc đỏ thẫm thuộc về
thực nhiệt. Nói tóm lại: đậm là nhiệt sâu. Khi bị bệnh truyền nhiễm cấp tính quá
nặng hoặc khi viêm nhiễm đưa đến nhiễm độc máu đều thấy lưỡi đỏ sẫm mà sinh gai
nhọn là doanh phần nhiệt thịnh; đỏ sẫm mà sắc tươi là nhiệt thương tâm bào lạc.
Chứng bại huyết và khi bị bệnh cấp tính viêm nhiễm nghiêm trọng cũng thấy lưỡi
đỏ sẫm. Lưỡi đỏ mà bóng, không rêu là vị âm mất đi, bệnh tình nguy ngập.
Sắc lưỡi từ đỏ sẫm chuyển sang đỏ tím mà khô là dấu hiệu
chính để chỉ bệnh ôn nhiệt phát triển đến huyết phần. Viêm nhiễm nặng khi phát
triển đến suy thấp và tuần hoàn cũng xuất hiện lưỡi tím. Tím mở là huyết ứ, tím
nông mà ẩm là hàn chứng.
Lưỡi xanh lam là
chứng nặng của khí, huyết cùng suy thoái. Xanh mà sáng bóng, không rêu là dự
đoán sẽ xấu. Khi hô hấp, tuần hoàn suy kiệt, thiếu ô xy năng cũng xuất hiện lưỡi
xanh.
B.b. Hình thái và động thái của lưỡi:
Chủ yếu là quan sát
các tình trạng thể lưỡi béo, gầy, già, non, khô, ẩm, rãnh nứt và hoạt động.
Dáng lưỡi béo mập,
hồng nhạt mà ven lưỡi có ngấn răng là hư chứng, hàn chứng. Lưỡi to béo là chứng
suy tuyến giáp, đầu chi phình to. Lưỡi to béo mà đỏ sẫm là tân dịch đã tổn
thương. Chất lưỡi rắn chắc, thô kệch (ngược với béo mập) là thuộc thực chứng
nhiệt chứng.
Trên lưỡi mọc gai
nhọn là nhiệt cực nội kết, gai nhọn càng to, càng nhiều là nhiệt kết càng sâu.
Sốt cao, tinh hồng nhiệt (sốt đỏ mặt như con tinh tinh), viêm phổi chứng nặng
đều thấy trên lưỡi mọc gai.
Trên lưỡi có vết nứt
thương là âm hư hay dinh dưỡng kém, nhưng sốt cao mất nước cũng thấy nứt. Cá
biệt có khi lưỡi nứt là tiên thiên tính.
Dáng lưỡi khi co
duỗi thì rung động, sắc lưỡi hồng nhạt là dương khí bất túc, chứng này thấy ở
bệnh thần kinh suy nhược và thể hư sau khi khỏi ốm. Rung động mà sắc lưỡi hồng
tươi là âm hư, thường thấy ở can phong nội động, trúng gió và cường tuyến giáp.
Lưỡi lè ra mà lệch
thường là chứng trúng gió.
Lưỡi cứng, vận động
khó khăn, vì vậy mà tiếng nói không rõ là can phong nội động gây ra, thường là
điềm báo trước chứng trúng gió hoặc là di chứng sau khi trúng gió.
Lưỡi mềm yếu vô lực
cũng phát sinh ở tình hình bệnh khác nhau. Lưỡi hồng, khô mà yếu là nhiệt thịnh
thương âm. Bệnh lâu ngày chất lưỡi trắng nhạt mà yếu là khi huyết đều hư. Lưỡi
đỏ sẫm mà yếu là âm hao đã cực.
B.c. Rêu lưỡi
Rêu lưỡi bình thường do vị khí hình thành thì trắng , mỏng,
sáng và ẩm. Khi có bệnh rêu lưỡi phát sinh các loại biến hoá. Lúc chẩn đoán,
quan sát rêu lưỡi chủ yếu là theo mầu sắc, tân dịch, dầy mỏng. Nhưng cần chú ý
loại trừ hiện tượng giả do ăn uống, hoặc do thuốc gây nên như ăn trầu, ô mai,
đậu đen...
- Rêu trắng đều thuộc hàn chứng, hư chứng (cũng có thuộc
nhiệt, thuộc thực) trắng mỏng mà trơn là ngoại cảm phong hàn, trắng nõn mà trơn
là lý hư hàn. Trắng nhẫy mà nhẵn là trong có đàm thấp. Trắng như rắc phấn là
bệnh ôn dịch. Trong bệnh nhiệt, rêu lưỡi trắng có lẫn vàng là bệnh tà hoả nhiệt
từ biểu vào lý, chứng tỏ bệnh tình đang phát triển.
- Rêu vàng thuộc nhiệt chứng, sắc vàng càng sau nhiệt càng
nặng, rêu mỏng hơi vàng là ngoại cảm phong nhiệt. Vàng dầy mà khô là vị nhiệt
thương âm, vàng mà dầy nhẫn là tỳ vị thấp nhiệt hoặc tỳ vị tích trệ. Sắc vàng
nhạt mà ẩm hoặc kèm theo dầy, rêu đục là do thấp trệ gây ra.
- Rêu đen thường thuộc lý chứng, nói chung thể hiện tình
rất nặng, nhưng có chia ra hàn nhiệt. Rêu lưỡi đen, ẩm trơn, chất lưỡi hồng nhạt
là hàn chứng. Rêu lưỡi đen, khô ráo chất lưỡi hồng tươi là hoả nhiệt thương âm.
Rêu lưỡi đen mà ẩm hoặc kèm theo dầy, rêu đục là do thấp trệ gây ra.
- Rêu đen thường thuộc lý chứng, nói chung thể hiện bệnh
tình rất nặng, nhưng có chia ra hàn nhiệt. Rêu lưỡi đen, ẩm trơn, chất lưỡi hồng
nhạt là hàn chứng. Rêu lưỡi đen, khô ráo chất lưỡi hồng tươi là hoả nhiệt thương
âm. Rêu lưỡi đen mà táo là hoả thịnh tân khô. Rêu đen khô nứt, gai nhọn cao lên
là thận thuỷ tưởng tuyệt, bệnh tình nguy nặng.
Rêu lưỡi từ dầy
chuyển thành mỏng, mặt lưng sáng trơn như gương, hoặc rêu lưỡi rải rác có chỗ
xanh là tân dịch hao tổn, âm hư thuỷ khô, bệnh tình nghiêm trọng. Những người
bệnh thiếu máu ác tính trẻ em trường vị có thấp nhiệt hoặc có ký sinh trùng cũng
thấy có rêu lưỡi trắng mỏng hoặc hơi vàng, lại cũng có rải rác rêu xanh. Nguyên
nhân của rải rác rêu xanh là cục bộ niêm mạc co rút tạo ra niêm mạc chết mà
thành.
Tóm lại: Rêu lưỡi từ
trắng biến thành vàng, xong chuyển thành rêu trắng môi là thuận chứng. Ruê lưỡi
từ trắng chuyển thành vàng, rồi chuyển thành đen là nghịch chứng. Rêu lưỡi
chuyển biến nhanh cũng thể hiện bệnh tình ác hoá.
Trên đầy giới thiệu
chất lưỡi và rêu lưỡi chỉ để học tập. Trên thực tế thiệt chẩn là quan sát toàn
bộ cái lưỡi theo hiện tượng, tất nhiên cần quan sát toàn bộ chất lưỡi và rêu
lưỡi kết hợp lại mà phân tích, bởi vì biến hoá của chất lưỡi và rêu lưỡi có quan
hệ hỗ tương phức tạp.
Tổng hợp quan hệ
biến hoá của chất lưỡi và rêu lưỡi với bệnh chứng đại để là: phàm thuộc nhiệt
chứng, chất lưỡi tất hồng, rêu lưỡi tất vàng, phàm thuộc hàn chứng, chất lưỡi
tất nhạt, rêu lưỡi tất nhiều nước mà trơn; phàm thuộc thực chứng, thể lưỡi tất
rắn chắc; phàm thuộc hư chứng, thể lưỡi tất phì nộn (béo non); phàm thuộc biểu
chứng, rêu lưỡi trắng mỏng không khô. Khí bệnh chủ yếu biến hoá ở rêu lưỡi.
Huyết bệnh chủ yếu biến hoá ở chất lưỡi.
Để tiện nắm được
thiệt chẩn, nay đem chất và rêu lưỡi kê thành bảng dưới đây theo biến hoá thường
thấy và kết hợp với biện chứng luận trị.
Chất
lưỡi |
Rêu
lưỡi |
Biện
chứng |
Hồng
nhạt |
Trắng
rất mỏng |
Khí
huyết hư |
Hồng
nhạt, béo non, có ngấn răng |
Trắng
mỏng |
Dương hư |
Trắng
nhạt, béo non
|
Xám đen,
ẩm trơn, sáng nhẵn |
Dương
suy tạng hàn, đàm thấp đình ở trong |
Hồng
nhạt nõn nà, có vết nứt |
Không
rêu |
Khí hư
âm hao |
Hồng nhạt |
Trắng
mỏng, ẩm |
Ngoại
cảm phong hàn |
Hồng nhạt |
Trắng,
dầy, trơn |
Đàm thấp
trọc nội đình hoặc ăn không tiêu |
Hồng nhạt |
Trắng
dày như rắc phấn |
Ôn dịch
hoặc có ung bên trong |
Hồng nhạt |
Trong
cái trắng có ít vàng dầy |
Biểu tà
bắt đầu chuyển vào lý |
Hồng nhạt |
Giữa và
gốc lưỡi vàng dày, ven lưỡi trắng mỏng mà ẩm |
Biểu tà
nhập lý, vị trường có nhiệt |
Hồng
tươi |
Trắng
cực mỏng
|
Âm hư
hoả vượng, |
Hồng
nhiều
vết nứt
sâu |
Gần như
không rêu |
Thuỷ bất
tế hoả hoặc chân âm hao tổn |
Hồng |
Vàng
mỏng |
Khí phần
nhiệt thịnh hoặc trường vi có nhiệt |
Hồng |
Vàng
trơn |
Thấp
nhiệt nhập khí phần |
Hồng |
Vàng dầy
khô |
Tà nhiệt
thâm nhập lý kết đã thành |
Hồng |
Đen khô |
Hoả
nhiệt thương âm |
Đỏ sẫm |
Vàng úa |
Nhiệt đã
theo khí vào doanh |
Đỏ tím |
Vàng sâu
hoặc vàng, vàng trắng mà khô ít rêu hoặc không rêu |
Nhiệt
vào phần huyết |
Xanh tím |
Trắng ẩm |
Nội hàn
cực nặng, xuất huyết ứ trệ |
B.d. Một số tài liệu hiện đại nghiên cứu về thiệt chẩn:
Gần đây tài liệu vận
dụng tri thức và phương pháp hiện đại vào nghiên cứu thiệt chẩn Đông y ngày càng
nhiều, từ tổ chức học, sinh hoá học, vi sinh vật
học và ở các góc độ khác nhau của các bộ môn
lâm sàng, người ta đã quan sát về sự biến hoá của cơ thể và chất lưỡi cho thấy
nó có liên quan tới nội tại của bệnh tật, và sơ bộ đã rút ra một số quy luật,
khái quát làm mấy điểm để cùng tham khảo.
d.1. Những nhân tố làm thay đổi và thể cái lưỡi:
- Mầu sắc của chất lưỡi biến hoá và hình thái tuần hoàn
máu ở lưỡi có quan hệ mật thiết. Khi thiếu máu và phù nề ở các tổ chức thì sắc
lưỡi biến thành nhạt. Khi xung huyết hoặc huyết quản tăng sinh thì sắc lưỡi đậm
thêm. Xuất huyết hoặc thiếu ôxy đến mức tăng hoàn nguyên hồng cầu non thì sắc
lưỡi xanh tím.
- Chất lưỡi phì nộn
chủ yếu là do dưỡng chấp giảm, phù nề ở tổ chức lưỡi tạo thành. Nếu do phù nề
hoặc giảm trương lực cơ thì lưỡi to ra hoặc mềm nhẽo, ép vào lợi thì thành ngấn
răng.
- Chất lưỡi khô là
do bài tiết nước bọt giảm, hoặc có kèm theo lượng mức trong nước bọt giảm gây
ra. Người bệnh âm hư thường có cường giao cảm, thần kinh phó giao cảm bị ức chế
làm thay đổi chất và lượng của việc bài tiết nước bọt, làm cho chất lưỡi khô.
- Rãnh nứt trên lưỡi
xuất hiện là do nhũ đầu của lưỡi dung hợp tạo thành lỗ rãnh. Có người cho rằng
nó có quan hệ với việc niêm mạc lưỡi co rút. Mặt lưỡi sáng bóng là do niêm mạc
trên da lưỡi co rút tạo thành.
d.2. Nhân tốt của biến hoá rêu lưỡi
- Rêu lưỡi bình
thường là do sừng hoá chỏm chót của nhũ đầu và trong lỗ rỗng không ngừng làm rơi
sừng hoá da, ti khuẩn, bột nhỏ của đồ ăn, tế bào thấm xuất cùng với nước bọt cấu
thành.
- Rêu lưỡi biến dày
là do sau khi bị bệnh, kém ăn, hoạt động của mỗi lưỡi giảm bớt ma sát, hoặc do
phát sốt, mất nước, phân bố nước bọt kém, ảnh hưởng đến tác dụng làm sạch của
lưỡi, đưa đến mớ nhũ đầu dài ra.
- Rêu lưỡi từ trắng
biến sang vàng là do mớ nhũ đầu tăng sinh, sừng hoá tăng mạch, tế bào ẩm ướt,
huyết quản giãn to và chứa lượng khuẩn nhiều gây nên. Nó có quan hệ lớn với
chứng viêm nhiễm, phát sốt và công năng tiêu hoá rối loạn.
- Sắc rêu lưỡi biến
thành đen là bởi mớ nhũ cầu trắng sinh quá nhiều, làm xuất hiện sắc đen trong tế
bào sừng hoá và sắc đen độc tố của khuẩn tăng thêm gây nên. Bệnh lý lúc này đã
lan sang tầng dưới của niêm mạc. Sốt cao mất nước, viêm nhiễm, chất độc kích
thích, công năng dạ dày và ruột rối loạn, nhiễm độc khuẩn, dùng thuốc kháng sinh
diện rộng kéo dài đều có quan hệ mật thiết với việc sinh ra rêu lưỡi đen.
d.3. Chất lưỡi biến hoá và quan hệ của bệnh tật
- Biến hoá của hình
tượng cái lưỡi đều phản ảnh sự nặng nhẹ và tiến triển của bệnh tình. Chất lưỡi
hồng nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng hoặc vàng mỏng, ẩm hay hơi nhẫy, đều thuộc bệnh
tình rất nhẹ. Chất lưỡi hồng sẫm, tím chàm, rêu lưỡi vàng dày, sạm đen, mềm
nhẽo, khô khan, rất khô, hoặc sáng của không rêu đều thuộc bệnh tình rất nặng.
Ví dụ: như người bị
bỏng, mặt vết bỏng càng lớn, mức thương càng nặng, chất lưỡi biến hồng càng
nhanh, càng rõ ràng, nếu kiêm phát chứng bại huyết, thì chất lưỡi càng hồng sẫm,
khô cứng. Do vậy đối với thời kỳ đầu của chứng bại huyết, nó giúp cho sự chẩn
đoán. Viêm gan siêu vi trùng, số người rêu lưỡi mỏng là rất nhiều, trắng nhầy
hoặc trắng dầy có ít. Bệnh tật có xu hướng khỏi, thì rêu lưỡi khôi phục, hoặc
gần như bình thường. Bệnh tình tái diễn, thì biểu hiện rêu lưỡi kéo dài không
lui. Do đó, ý nghĩa rêu lưỡi ở trong chẩn bệnh tật cũng có giá trị tham khảo.
- Một số biến hoá
của lưỡi có ý nghĩa đặc thù về triệu chứng nhẹ, nặng của bệnh. Viêm nhiễm, khối
u ác tính, ba - dơ - đô, can, phế, thận có bệnh nặng về thực chất cơ bản, thường
thấy lưỡi âm hư. Chất lưỡi của số bệnh này là hồng sẫm, thân luỗi gầy nhỏ, khô
mà có rãnh nứt, rêu sáng xanh, ven đầu lưỡi có gai hồng. Cuối kỳ, toàn bộ lưỡi
sáng như gương. Chất lưỡi của bệnh gan xơ hoá nhẹ, thường là hồng nhạt, rêu lưỡi
trắng mỏng hoặc vàng mỏng. Tuần hoàn ở mỏm tĩnh mạch bị trở ngại thì chất lưỡi
chuyển snag tím, thể lưỡi trương to, tĩnh mạch dưới lưỡi trương to từng khúc.
Rêu lưỡi từ trắng mỏng chuyển sang sáng xanh thường biểu hiện công năng của gan
rối loạn. Quan sát biến hoá ở lưỡi, có thể giúp cho sớm phát hiện hôn mê gan.
Người bị viêm gan nặng, chết lưỡi thường hồng thẫm, khô khan, ít nước; khi bệnh
tình chuyển biến xấu càng thấy rõ ràng, rêu lưỡi dày, nhiều, nhầy mà khô, sắc
vàng hoặc đen cũng có khi sáng sủa không rêu.
Người ung thư mũi ở
thời kỳ cuối mới thấy xuất hiện tượng lưỡi hồng, sáng sủa không rêu, có khi lại
mọc mụn nhọt ra ngoài.
C. XEM VĂN NGÓN TAY TRẺ EM. (CHỈ VĂN)
Văn ngón tay là tĩnh
mạch nhỏ nổi ở mặt ngoài ngón tay trỏ (phía xương quay). Trẻ em mới đẻ, da dẻ
mềm mỏng, tĩnh mạch dễ bộc lộ, văn trên ngón tay rất dễ nhận biết, sau đó tuỳ
theo tuổi lớn dạ dày thêm văn tay mời dần. Ở mức độ nhất định, văn ngón tay có
thể phản ảnh tính chất và mức độ nặng nhẹ của bệnh biến. Trẻ em mạch bộ ngắn,
nhỏ, khi có bệnh luôn kêu khóc đã ảnh hưởng đến tính chân thực của mạch tượng,
cho nên lâm sàng nhi khoa đối với trẻ em dưới 3 tuổi thường dùng cách xem văn
tay giúp cho thiết chẩn.
Xem văn ngón tay,
chủ yếu là xem màu sắc và độ chứa đựng máu của tĩnh mạch nổi. Chia ngón tay trỏ
ra làm 3 phần. Đốt 1 gọi là phong quan, đốt 2 gọi là khí quan, đốt 3 gọi là mệnh
quan.
Khi xem, người thầy
thuốc đưa ngón tay trẻ ra chỗ sáng, lấy ngón tay cái và ngón trỏ tay trái của
mình nắm lấy đầu chót ngón trỏ của đứa trẻ, dùng ngón trỏ cái tay phải vuốt nhẹ
trên ngón trỏ của đứa trẻ về phía lòng bàn tay vài lần để văn tay nổi rõ rồi mới
xem.
Chỉ văn bình thường
có mày tím nhạt mà tươi sáng, nhất thiết không vượt quá phong quan. Khi có
bệnh, độ chứa đựng máu và màu sắc của văn biến hoá như sau:
- Chỉ văn rất nổi
tiếng về biểu chứng
- Chỉ văn chìm là
bệnh tại lý
- Chỉ văn sắc nhạt
là hư chứng, hàn chứng
- Chỉ văn sắc tím
hồng là thuộc nhiệt chứng
- Chỉ văn sắc xanh
là phong hàn, hoặc kinh phong, hoặc đau đớn, hoặc thương thực, hoặc đàm khí
ngược lên.
- Chỉ văn sắc đen là
ứ huyết
- Chỉ văn uất trệ
(động đến mà máu không lưu thư) là đàm thấp, thực trệ, hoặc tà nhiệt uất kết,
thực chứng.
Về vị trí mà nói,
chỉ văn hiện ở phong quan là bệnh tình còn nhẹ và nông. vươn dài qua đến khí
quan là bệnh tình đã nặng. Vươn dài qua mệnh quan tới tận đầu mút ngón tay là
"thấu quan xạ giáp" thì bệnh tình đã nguy ngập.
Tóm lại
Chỉ văn thể hiện:
- Phù, trầm là biểu
lý
- Hồng, tím là hàn
nhiệt
- Nhạt, trệ là hư
thực
- Tam quan là nặng
nhẹ
Một số tài liệu hiện
đại nghiên cứu về chỉ văn nói chung đã cho rằng biến hoá độ chứa đựng máu, chủ
yếu quan hệ với tĩnh mạch áp ở trẻ em. Bệnh tâm lực suy kiệt, viêm phổi, đại đa
số thấy chỉ văn vươn tới mệnh quan, đó là do tĩnh mạch áp gây ra. Tĩnh mạch áp
càng cao, độ chứa đựng máu chỉ văn càng lớn, đều hướng ra đầu ngón tay mà vươn
tới. Mầu đậm của chỉ văn ở mức độ khác nhau, phản ánh trình độ thiếu khí trong
cơ thể. Thiếu khí càng nhiều thì lượng hồng cầu non hoàn nguyên trong máu càng
cao, màu xanh tím của chỉ văn cũng rõ thêm. Trẻ em bần huyết, do hồng cầu và
hồng cầu non giảm, chỉ văn nhạt đi.
3. VĂN CHẨN (NGHE)
Văn chẩn bao gồm hai
mặt: nghe tiếng nói, âm thở và mùi vị
A. Nghe âm thanh âm
bao gồm nghe tiếng nói, hơi thở, tiếng ho, tiếng ợ, nấc của người bệnh.
Tiếng của người bệnh
trầm nhỏ, đứt đoạn, ít hơi, ngại nói, là thuộc hư chứng hàn chứng. Tiếng cao, có
sức hoặc nói nhiều liên thiên là thực chứng nhiệt chứng.
Tiếng nói đột nhiên
khản câm, thường là phong hàn hoặc đàm ở thực chứng gây ra. Tiếng nói khàn câm
từ từ là phế nuy (phổi yếu khô) tân khô của hư chứng. Hơi thở gấp mà yếu, hít
hơi xong cảm thấy dễ chịu là hư chứng. Thở hít tiếng thô, thở ra xong thấy dễ
chịu là thực chứng, nhiệt chứng. Bệnh lâu ngày, phế thận muốn tuyệt, cũng thấy
khí thô, đứt đứt, nối nối, không phải là có thực chứng mà là hư chứng.
Nhiệt nhập tâm bào,
thần chí mê mệt cũng thấy hơi thở nhỏ yếu, nhưng không phải hư chứng mà là thực
chứng.
Tiếng ho yếu là khí
phế hư. Tiếng ho nặng nề, đục, đờm trắng là thuộc ngoại cảm phong hàn. Tiếng ho
trong trẻo, ho đờm khó ra là phế nhiệt. Ho từng cơn mà có sức là phế thực.
Tiếng nấc mạnh mà có
sức, mạch hoạt, thực là thực chứng mà nấc. Tiếng nấc cao mà ngắn gấp, họng khô
khát, mạch sác là nhiệt nấc. Tiếng nấc yếu, mạch vô lực, kèm chứng trạng hư là
hư nấc. Bệnh nặng, bệnh lâu ngày, đột nhiên thấy nấc là chứng trạng nguy kịch.
B. Ngửi mùi vị: Bao
gồm hơi người, hơi mồm, mùi các loại bài tiết. Một số bệnh có mùi đặc biệt, như
người có bệnh lở loét thì phát ra mùi thịt thối; bệnh ôn dịch, gan, thận nặng
thường có mùi riêng biệt.
Hơi miệng hôi, tanh
là phế vị có nhiệt; hôi chua là có vị tích thực. Đờm tanh là phế nhiệt, rất hôi
là ung thư phổi đã có mủ. Về mặt đại tiểu tiện, kinh nguyệt, khí hư thì theo như
vấn chẩn.
4. THIẾT CHẨN (BẮT MẠCH VÀ SỜ NẮN)
A. Bắt mạch (mạch chẩn): Nhận biết và phân biệt mạch tượng trong Đông y
là vô cùng tỷ mỷ. Tất cả chia ra 28 loại mạch tượng, làm thành một mặt trọng
yếu của chẩn đoán lâm sàng.
A.a. Phương pháp bắt mạch: ;
Thông thường tiến
hành ở động mạch quay cổ tay, phía lòng bàn tay (gọi là mạch thốn khẩu). Đoạn
động mạch này chia làm 3 khẩu gọi là Thốn bộ, Quan bộ, Xích bộ; Ngang chỗ xương
quay lồi ra là Quan bộ, dưới Quan là Thốn, trên Quan là Xích. Trước khi bắt
mạch, yêu cầu nghỉ ngơi một lúc rồi mới chẩn mạch). Khi chẩn mạch, cánh tay
người bệnh duỗi ngang ra, lòng bàn tay ngửa ra ngay ngắn. Người thầy thuốc,
trước hết lấy đầu ngón tay giữa để vào Quan bộ, sau đó đến ngón tay trỏ để vào
Thốn bộ, rồi ngón tay nhẫn để vào Xích bộ, 3 ngón tay để sát vào nhau. Nếu người
bệnh cao lớn hơn bình thường, thì 3 ngón tay nới rộng ra. Trẻ em thốn khẩu mạch
còn ngắn, chỉ nên dùng một ngón tay chẩn cả 3 bộ mạch. Chẩn cho trẻ dưới 8 tuổi
lấy ngón tay cái đặt ở quan bộ, trên 8 tuổi xê dịch ngón cái mà chẩn 3 bộ bộ.
Khi chẩn, cần dùng sức ngón tay khác nhau để đo mạch. Nhẹ tay xem mạch gọi là
Phù thủ (lấy nổi) hoặc gọi là Cử; hơi dùng sức là Trung thủ; ấn nặng gọi là Trầm
thủ hoặc là án, có khi cần thay đổi ngón tay tìm kiếm mới thấy được cảm giác rõ
ràng, gọi là Tâm.
Ba bộ thốn, quan,
xích bên phải bên trái khác nhau. Có thể phân biệt chuẩn xác chứng ở các tạng
phủ khác nhau.
Bên trái: Thốn =
Tâm; Quan = Can; Xích = Thân
Bên phải: Thốn =
Phế; Quan = Tỳ; Xích = Thân (Mệnh môn)
(Cách nói Trái =
Thận; Phải = Mệnh môn chỉ dùng trong bắt mạch
A.b. Đặc điểm của mạch tượng và chủ bệnh (6 cặp, 12 loại
mạch thường gặp)
Dưới đây chủ yếu
giới thiệu mạch tượng thường thấy trên lâm sàng. Hiểu biết các đặc điểm của mạch
tượng là dựa vào vị trí mạch cao thấp, tần số nhanh chậm, tiết luật mạnh yếu,
hình thái to nhỏ của mạch tượng. Bình thường là một lần hô hấp (nhất tức) bình
quân mạch nhảy 4 đến 5 lần (đại để tương đương 72 - 80 lần trong một phút),
không nổi không chìm, không to không nhỏ, đều đều, hoà hoãn gọi là mạch hoãn.
Nhưng nếu bị khí thấp gây bệnh cũng thấy mạch hoãn. Cũng có thể nhận thấy mạch
hoãn kiêm phù, kiêm trầm, kiêm đại, kiêm tiểu, đó là mạch bệnh.
- Mạch phù, và mạch
trầm: đặc điểm của hai loại mạch tượng này là ngược nhau về mạch vị cao thấp.
Mạch phù, mạch vị
cao, mới tiếp xúc nhẹ tay đã có cảm giác rõ, dùng sức hơi nặng thì cảm giác mạch
giảm đi.
Mạch trầm, mạch vị
thấp, nhè nhẹ tiếp xúc không thấy được, hơi dùng sức cũng không thấy được rõ,
cần ấn nặng tay mới thấy.
Mạch phù chủ bệnh:
Biểu chứng
Phù mà có lực: biểu thực, Phù mà vô lực: biểu hư. Như bệnh
ngoại cảm, sợ lạnh, phát sốt, không có mồ hôi, mạch phù, khẩn là biểu hiện hàn
thực chứng. Bệnh ngoại cảm phát sốt, ra mồ hôi, sợ gió, mạch phù, nhược là biểu
hàn hư chứng.
Những người hư nhược
về thể chất khi có bệnh ngoại cảm thường mạch không phù. Bệnh truyền nhiễm cấp
tính sơ kỳ, thường thấy mạch phù.
Mạch trầm chủ bệnh:
Lý chứng
Trầm mà có lực: lý
chứng. Trầm mà vô lực: lý hư. Như ho hắng mà vô lực, đờm trong, trắng, ngắn hơi,
sắc mặt trắng, ăn ít, mệt mỏi, mạch trầm nhược là phế k hí hư, thuộc lý hư
chứng.
- Mạch trì và mạch
sắc: Đặc điểm của hai loại mạch tượng này là ngược nhau về tần số của mạch
chuyển nhanh hay chậm.
Mạch trì một nhịp
thở là 3 lần đập; (nhất tức tam chí); tương đương với 60 lần trong 1 phút.
Mạch sác thì 1 nhịp
thở từ 5 lần trở lên (nhất túc ngũ chí dĩ thượng) tương đương 90 lần trong 1
phút.
Mạch trì chủ bệnh:
Hàn chứng
- Phù hữu lực: lãnh
tích thực chứng; vô lực: hư hàn
Như lưng, đầu gối
mềm, tảng sáng đau bụng ỉa chảy, lưỡi nhạt, ẩm (nhuận), mạch trầm, trì, vô lực
là thận dương hư, lý hư chứng.
- Mạch sác chủ
bệnh: Nhiệt chứng
Sác mà hữu lực:
dương hư. Sác mà tế nhược (nhỏ yếu): âm hư nội nhiệt. Như mặt đỏ họng khô, trong
tâm phiền nhiệt, mạch sác hữu lực lại là tâm hoả vượng; thuộc chứng dương thịnh.
Miệng loét lợi sưng, ăn không tiêu, mạch tế, sác là vị âm hư, hư hoả thượng
Viêm, thuộc hư nhiệt.
- Mạch hư và mạch
thực: Đặc điểm của hai mạch tượng này là sự tương phản về sức chuyển động mạch
yếu. Mạch hư là lấy mạch ở phù, trung, trầm đều thấy vô lực. Mạch thực là lấy
mạch ở phù, trung, trầm đều thấy có lực.
Hình sóng của mạch thực:
Mạch hư chủ bệnh:
khí huyết đều hư, Phù hư là thương thử
Mạch thực chủ bệnh:
Thực chứng
Sốt cao, cuồng thao
không yên, đại tiện táo bón, đều xuất hiện mạch thực. Thực mà hoạt là ngoan đàm
ngưng kết. Thực mà huyền là can khí uất kết.
- Mạch hoạt và mạch
sáp: đặc điểm là tương phản về nỗ thái (hình thái của sức mạch). Mạch hoạt là
mạch đi lại rất lưu lợi, dưới tay có cảm giác trò trơn. Mạch sáp là mạch đi lại
bị tắc trệ, muốn đi mà phải gắng mới đi được, muốn lại mà phải gắng mới lại
được. Mạch sáp trên điện tâm đồ có hình tượng ngưng trệ chia gai đường truyền. ở
mạch chuyển đồ cũng có đặc điểm to nhỏ không đều.
Mạch hoạt chủ bệnh:
Đờm thấp, tích trệ
Như tiếng ho nặng, đục, đờm nhiều mà trắng, dễ văng ra, ngực buồn bằn, ăn ít,
rêu lưỡi trắng nhầy, mạch hoạt là đàm thấp, ho. Người có thai cũng thường thấy
có
mạch hoạt.
Mạch sáp chủ bệnh:
huyết thiếu, huyết ứ, khí trệ.
Người bệnh thiếu
máu, trúng gió liệt nửa người, bệnh xơ vữa động mạch tim cũng xuất hiện dạng
mạch sáp.
- Mạch hồng và mạch
tế: Đặc điểm của hai tượng mạch này là khác nhau về hình to nhỏ và sức mạnh.
Mạch hồng hình to và sức thịnh như nước lũ tràn trề, phù thủ đã thấy rõ ràng.
Mạch tế là mạch nhỏ như sợi chỉ, sức không thịnh, khi ấn mạch ngón tay mới rõ.
Mạch hồng chủ bệnh:
Nhiệt thịnh
Như bệnh thấp nhiệt,
nhiệt thịnh khí phần, xuất hiện sốt cao, phiền khát, ra mồ hôi nhiều, mạch hồng
đại. Nhiệt thịnh thương âm. Khi âm hư ở trong, mà dương nổi ở ngoài cũng xuất
hiện mạch hồng. Các bệnh truyền nhiễm ở đoạn cực độ thường có mạch hồng.
Mạch tế chủ bệnh:
Thường là chứng hư
Chứng hư tổn, thường
thấy mạch tế. Riêng bệnh thấp khí trú xuống, khi thấp tà ở mạch đạo cũng xuất
hiện mạch tế nhưng không phải là hư chứng mà là thực chứng. Nếu sắc mặt trắng
bợt, môi lưỡi trắng nhạt, váng đầu hoa mắt, tim hồi hộp, mệt mỏi, mạch tế là
huyết hư. Đại tiên phân như mủ, tinh thần mệt mỏi, ăn ít, bụng chứng, chân tay
không ấm, mạch thường huyền, tế mà hoãn là hàn thấp, lỵ tật, thuộc hư chứng.
- Mạch huyền và mạch
khẩn: đặc điểm của 2 mạch tượng này là giống nhau ở chỗ sóng mạch của cả 3 bộ
Thốn, Quan, Xích liền làm một hơi. Cảm giác dưới 3 ngón tay như một sợi thừng
căng chắc. Chỗ khác nhau là mạch huyền giống như sờ trên sợi dây đàn, mạch khẩn
như sờ trên sợi dây thừng kéo căng, mạch nỗ khẩn cấp, ứng vào ngón tay có sức,
mạch huyền sức không cấp như loại này. Về hình mạch tụ thì lớn hơn so với mạch
huyền.
Hình sóng mạch huyền:
Hình sóng mạch khẩn: |
|
Mạch huyền chủ bệnh: Chứng đau, phong, sốt rét, đàm, ẩm
- Âm hư, dương cang thường thấy mạch huyền, như cáo huyết áp (can dương thiên
cang hình) mạch thường huyền mà có lực
- Can âm bất túc, mạch huyền tế
- Can vị bất hoà (thấy đau dạ dày, lan sang liên sườn, ợ hơi dễ cáu) mạch thường
huyền.
- Bệnh gan, viêm túi mật, loét tá tràng, kinh nguyệt không đều, ung thư cổ dạ
con, bệnh ở thận tạng đều thấy mạch huyền.
Mạch khẩn chủ bệnh: Chứng hàn, chứng đau
Ngoại cảm phong hàn thì mạch phù khẩn, lý hàn thì mạch trầm khẩn như: hàn bại
trong chứng bại, các khớp tay đau đớn dữ dội, nơi đau cố định không chuyển, được
chườm ấm thì giảm đau, mạch thường huyền khẩn. Khi xơ hoá động mạch cũng có thể
thấy mạch khẩn.
Sau đây giới thiệu 8 mạch tượng có đặc thù cũng thường thấy trên lâm sàng: súc,
kết, đại, nhu, nhược, vi, đại, khâu
Súc, Kết, Đại là 3 loại mạch tượng biểu hiện tiết luật của mạch (nhịp của mạch)
không ngay ngắn mà có gian kiệt (lửng nhịp).
- Mạch súc: mạch sác mà có nhịp lửng không quy luật, chủ thực nhiệt, khí trệ,
huyết ứ.
- Mạch kết: mạch hoãn mà có nhịp lửng không quy luật, chủ âm thịnh, khí kết, hàn
đàm, huyết ứ.
- Mạch đại: Sự nhanh chậm của mạch như thường, nhưng có nhịp lửng theo quy luật,
nhịp sau lửng đến hơi chậm, có mô hình sau:
Chủ về tạng khí suy vi, hoảng sợ, tổn thương do bị đánh đập; ngoại ra sau khi
nôn nhiều, ỉa chảy nhiều, vừa đẻ cũng thấy mạch này. Súc, kết, đại là mạch thấy
ở các loại bệnh về tim: như bệnh thấp tim, xơ vữa mạch vành.
- Mạch nhu: Mạch tượng phù tiểu mà nhuyễn (nổi, nhỏ mà mềm) như sợi bông trên
mặt nước, sờ nhẹ thì thấy, ấn nặng thì không thấy.
Chủ thấp, chủ hư, như thuỷ thũng, khí huyết hư nhược
- Mạch nhược: Mạch
trầm, tiểu mà nhuyễn (chìm, nhỏ mà mềm). Chủ khí huyết bất túc.
- Mạch vi: Cực tế,
cực nhuyễn (rất nhỏ, rất mềm), tựa như có, tựa như không, khởi lạc mơ hồ. Chủ hư
cực. Bệnh lâu ngày mà thấy mạch này là chứng nguy kịch nặng nề.
- Đại mạch: Hình
mạch hơi to hơn bình thường, nhưng không tràn trề như nước lụt của hồng mạch.
Chủ tà thịnh. To mà vô lực là hư chứng.
- Mạch khâu: Mạch
phù, mạch to mà khống ở giữa, có hai bên mép mà ở giữa không có, như sờ vào ống
dọc hành. Chủ đại xuất huyết. Người bần huyết tái sinh cũng thường thấy mạch
này.
Dưới đây còn 8 loại
kiêm mạch, khó nhận biết hơn ở lâm sàng là: trường, đoản, cách, lao, tán, phục,
động, tật, cần chú ý tham khảo.
- Mạch trường: Mạch
tượng của mạch trường là không to, không nhỏ, chuyển động tuy dài mà trạng thái
nhu hoà, ổn định. Người ta ví như tay cầm ở cuối một cái cán dài thì đúng là
mạch trường bình thường, nếu như một sợi dây được kéo thẳng, không nhu hoà, hoặc
giả như cầm phải cái gậy thẳng đơ, cứng nhắc, đó là bệnh biến của mạch trường.
Mạch trường xuất
hiện thường thường vượt quá vị trí thốn bộ, xích bộ, nhưng không giống cảm giác
khẩn trương của mạch huyền.
- Chủ bệnh: Nhọt
độc, huyết nhiệt, điên giản, phong đàm: Đó là các bệnh lý nhiệt, tích thịnh của
"Dương minh" (chủ yếu là chỉ vị và đại trường).
- Mạch đoản: là mạch
tương phản với mạch trường, ở thốn, xích bộ nó đều biểu hiện không đầy đủ (hoặc
là xích bộ, hoặc là ở thốn bộ). Chuyển động của nó rất ngắn, hơi khác với mạch
sáp. Mạch sáp tuy cũng ngắn, rất rõ ràng, nhưng mạch hình tế nhược, chuyển động
chậm chạp, khó khăn. Khi mạch đoản xuất hiện là phản ảnh khí huyết hư tổn, cũng
có khi thường vì ngộ độc rượu hoặc thấp nhiệt nội thịnh mà thấy mạch đoản, chỉ
riêng ở mạch đoản mới thấy thêm hoạt sác.
+ Xuyễn tức (thở
ngắn gấp), thường thấy phù đoản
+ Ngực bụng bí, đầy,
thường thấy trầm đoản
+ Dương khí hư ở
trên mà đau đầu, thì Thốn mạch thường đoản
+ Dương khí hư ở
dưới mà đau bụng, thì Xích mạch thường đoản
- Mạch cách: mạch
tượng giống như ấn trên mặt trống, sờ nhẹ thấy rắn, ấn mạnh càng thấy mạch rỗng
không, thực chất là mạch huyền và mạch khâu cùng xuất hiện. Đó là do tinh huyết
hư ở trong, lại bị cảm hàn tà mà tạo thành. Đàn bà đẻ non, băng huyết, lậu kinh,
nam giới doanh khí tư tổn, di tinh... quá nửa số là thấy loại mạch cách của hư
hàn tính.
- Mạch lao: mạch
tượng có ý nghĩa là huyền, trường, thực, đại và rất sâu. Vì bộ vị xuất hiện của
nó so với mạch trầm thì sâu hơn mà gần rất giống mạch phục. Khi chẩn thấy mạch
lao rất cần phân biệt cho rõ ràng với mạch cách:
+ Mạch cách xuất
hiện phù ở các bộ, hình trạng huyền mà khâu.
+ Mạch lao xuất hiện
rất trầm ở các bộ vị, hình trạng thực, đại mà trường, hơi huyền
+ Mạch cách thường
thấy ở chứng đại hư
+ Mạch lao thường
thấy ở chứng đại thực
Giữa trầm, phù, hư,
thực có sự cách biệt rất lớn
Chủ bệnh: Trầm, hàn,
lý, thực, thuộc về bệnh biến tà khí có thừa, khí ngực bụng lạnh đau, can khí uất
tích, tỳ bỉ bất vận, đều xuất hiện mạch lao. Nói chúng lại là bệnh tích tụ: Sán,
Trưng, Hà, Giả đều xuất hiện mạch lao, vì thực chứng, thực mạch, là mạch chứng
tương hợp. Nếu như âm hư thất huyết, một loại đại hư chứng mà thấy xuất hiện
mạch lao, là hư chứng, hư mạch. Mạch của chứng tương phản nhau đó là chính khí
đại thương, tà khí nhiễm thịnh, cần chú ý dự phòng tai biến.
- Mạch tán: sờ mạch
thấy phù tán không có căn, số lần trong các nhịp thở không đều, đây là điểm
chính để nhận biết mạch tán. Cần tránh nhầm lẫn giữa mạch tán và mạch tử.
Phù thủ thấy đại hư,
ấn hơi nặng tay thì thấy mạch tán. Cần tránh nhầm lẫn giữa mạch tán và mạch tử.
Phù thủ thấy đại hư,
ấn hơi nặng tay thì thấy mạch thay đổi tán loạn, không rõ ràng, ấn nặng hơn thì
không thấy nữa. mạch tán có 2 đặc điểm:
- Chuyển động của
mạch rất không ngay ngắn, không phải là đến nhiều đi ít, đến một, đI một không
rõ ràng.
- Mạch phù mà hư dữ,
sờ nhẹ thì thấy, sờ nặng dần thì mất dần đó là do nguồn gốc nguyên khí hư tổn.
Đàn bà chửa thấy mạch tán là đã đến lúc đẻ, nếu như chưa đến kỳ đẻ là có thể xẩy
thai. Bệnh lâu ngày mà mạch tán là dương khí của tỳ, thận bị tổn thương nghiêm
trọng, cần kịp thời cứu chữa.
Cần phân biệt loại
mạch của chứng hư là: Tán, Nhu, Hư Khâu. Tuy cùng là chứng hư, nhưng mức độ khác
nhau. Chủ bệnh.
- Chứng xung của tâm
dương bất túc, thốn bộ trái: Mạch tán.
- Vệ khí bất cố mà
tự ra mồ hôi, thốn bộ phải: mạch tán
- Bệnh ích ẩm (uống
nhiều, không ra mồ hôi, tứ chi chứa nước, mình mẩy đau đớn) do dương bất hoá âm,
quan bộ trái: mạch tán
- Tỳ dương bất túc,
thuỷ thấp trú ở dưới mu bàn chân, ống chân phù nề, quan bộ phải Mạch tán.
- Bệnh lâu ngày mà
thấy hai bộ xích đều có mạch tán là chứng nguyên khí loạn, cần đặc biệt theo
dõi.
- Mạch phục: Khi
chẩn mạch phục phải dùng sức ấn nặng tới xương, dưới tay mới thấy chuyển động
mạch, giống như chuyển ở dưới lớp gân. Đó là do hàn tà ngưng ở kinh lạc, khi
dương khí không thể phát vượt, cũng thường thấy mạch phục. Phải giữ cho dương
khí hồi tỉnh, đột phá được hàn ngưng, làm cho ra mồ hôi. Khi đau bụng, rốn lạnh
đau, tứ chi quyết nghịch mà thấy mạch phục là thuộc chứng âm hàn nội uất. Ăn
uống đình lưu, khí uất trong ngực, muốn nôn mà không nôn ra được, trong vùng
thượng vị rất khó chịu, thốn bộ ở cả 2 tay đều thấy mạch phục.
Trung tiêu hàn thấp
ngưng tụ làm cho đau bụng, khó chịu, quan bộ cả 2 tay đều thấy mạch phục.
- Mạch động: Mạch
động là một loại của mạch sác, kiêm khẩn, kiêm hoạt, kiêm đoản. Gọi là mạch động
vì khi chuyển, mạch gõ đập có sức không đầu, không đuôi, giống như hạt đậu to
đứng ở một điểm. Mạch động không chỉ xuất hiện ở Quan bộ mà còn xuất hiện ở cả 3
bộ Thốn, Xích (ngày xưa cho rằng chỉ có Quan bộ).
Hàn thắng dương là
đau đớn, hồi hộp của khí loạn; tự ra mồ hôi vì dương không thắng âm; phát sốt vì
âm không thắng dương; ỉa chảy do tỳ, vị bất hoà; Nhiễm hàn, nhiệt, mất chức năng
chuyển hoá của tạng phủ; lỵ tật của khí huyết cùng khô; kinh mạch co rút của âm
hàn tà thịnh; kinh khí bị thương. Nam giới vong tinh do âm hư, dương thịnh, nữ
giới băng huyết, đều thấy mạch động. Mạch động là kết quả của hai mặt âm dương
chuyển khích thiên thịnh thiên suy.
- Mạch tật: là loại
mạch chạy rất nhanh, mỗi nhịp thở có trên 6 lần đập.
A.c. Những
điểm cần chú ý khi chẩn mạch
Mạch trên lâm sàng
thường là kiêm mạch, người chỉ có một mạch tượng thường rất hiếm. Tình huống nói
chung có 3 loại:
- Một mạch tượng đơn
độc xuất hiện.
- Hai, ba mạch tượng
cùng xuất hiện: như phù Sác, phù khẩn, trầm trì, trầm huyền, trầm tế, tế sác,
hoạt sác...
- Chủ bệnh của kiêm
mạch tương đương với tổng hợp chủ bệnh của các mạch. Ví dụ: trầm tế, tế sác,
hoạt sác...
- Bệnh mạch đơn độc
xuất hiện ở một bộ mạch, như đau đầu thường thấy riêng thôn bộ mạch phù, còn lại
bình thường.
Trên quan hệ giữa
mạch và bệnh, cũng có khi 1 mạch chủ nhiều bệnh, hoặc một bệnh thấy mấy mạch
khác nhau, như mạch huyền chủ về đau, phong, sốt rét (chứng ngược). Lại như
chứng hàn có thể thấy mạch trì hoặc mạch khẩn.
c.1. Trong cái
thường có cái biến. Mạch tượng bình thường là mạch hoãn, một nhịp thở từ 4 - 5
mạch đập, không nổi, không chìm, đều đều hoà hoãn. Đây chỉ là tương đối, vì
trong cơ thể, do ngoại cảnh ảnh hưởng cũng xảy ra một số biến động sinh lý, như
sau bữa ăn mạch rất khoẻ, sau khi vận động mạnh, mạch thường hồng sác; sau khi
uống rượu, mạch thường sác, sau khi đI xa mạch thường rất nhanh (cấp tật). Người
dân lao động mạch to và khoẻ (đại, hữu lực). Vận động viên mạch thường trì
(chậm). Người béo mạch thường trầm tế; Người gầy: mạch phù đại (nổi, to). Phụ nữ
mạch nhỏ yếu (tế nhược), lúc hành kinh mạch tay trái quan bộ, xích bộ chuyển
sang hồng ( to mà tràn như lụt). Trẻ em: mạch sác, thường cứng. Có người do cấu
tạo giải phẫu lạ nên động mạch ở sau cổ tay, phía mu bàn tay gọi là " phản quan
mạch ". Khi bắt đầu mạch mà thấy mạch chuyển trầm tế khác thường, hoặc không
thấy mạch thì kịp thời nghỉ đến "phản quan mạch".
Mạch thường và mạch
bệnh khác nhau ở 3 mặt: vị, thần, căn
- Mạch đến mềm đều
mà trong có sức là có thần.
- Mạch trầm thủ (ấn
nặng tay) vẫn rõ ràng là có căn.
Phàm mạch có Vị,
Thần, Căn là mạch khoẻ mạnh. Khi bệnh rất nặng mà cũng thấy vị, thần, căn là báo
hiệu tình trạng bệnh phát triển tốt lên.
c.2. Chấp nhận giản
tiện, giảm bớt rườm ra. 28 mạch tượng là kinh nghiệm tổng kết lâu dài trong thực
tiễn của Đông y, để tiện việc học tập, cần khái quát lại như sau:
- Trên đại thể, nhận
thức được như thế này là do vị trí, tốc độ, hình thái, quy luật của mạch quyết
định:
- Vị trí: Trầm, phù.
Tốc độ: Trì, xác
- Cường độ: Hư,
thực. Hình thái: Huyền, hoạt, hồng, tế, sáp, khẩn.
- Quy luật (tiết
luật): Súc, kết, đại
- Theo bát cương
biện chứng mà nghiên cứu chủ bệnh của mạch:
- Phù = biểu. Trầm =
lý. Sác = nhiệt
- Trì = hàn. Hữu lực
= thực. Vô lực = hư
Thông qua 6 loại
mạch tượng được phân biệt, mà có thể phân giải tình trạng của 2 mặt chính tà.
c.3. Hợp cả mạch và
chứng mà tham khảo. Mạch và chứng tương ứng là quy luật nói lúc này phải phân
tích toàn diện mà bỏ giả, giữ thật, tìm lấy bản chất mà phán đoán. Như bệnh viêm
ruột thừa, chứng trạng biểu hiện cơ bản đã hết, nhưng mạch lại sác, thường là
dấu hiệu chứng viêm chưa hoàn toàn hết, lúc này nên cho qua chứng mà theo mạch,
không nên ngừng chữa để đề phòng tái phát. Lại như sau khi ỉa chảy quá nhiều,
mất máu nhiều mà mạch (ngược lại) thấy hồng, lúc này nên bỏ mạch mà theo chứng
để tránh sự lầm lẫn trong cách chữa, gây nên tai biến nhanh chóng. Có khi chứng
chưa thấy đã thấy mạch biến trước, lúc này mạch tượng có thể làm căn cứ cho chẩn
đoán thời kỳ bắt đầu khởi bệnh. Như bệnh ngoại cảm ở thời kỳ bắt đầu là mạch
phù, dần dần xuất hiện các chứng khác nữa.
A.d. Một số
tài liệu hiện đại nghiên cứu về mạch tượng
Có người dùng máy
ghi chuyển động mạch bộ, ghi được 15 loại mạch tượng khác nhau. Kết quả ghi máy
và bắt mạch cơ bản nhất trí, như mạch phù ở tình huống không gia ngoại áp đường
gấp khúc ghi được rõ ràng, khi gia ngoại áp (tương đương bắt mạch trầm thủ) sóng
mạch ngược lại giảm thấp. Ở mạch trầm, ngược lại, không gia ngoại áp, thì không
ghi điểm của đường gấp là sóng phó đặc biệt cao, sóng chủ dấy thẳng lên rất
nhanh hạ xuống huyền là sau khi sóng chủ dấu lên duỗi ra một thời gian ngắn rồi
mới hạ xuống, làm cho đỉnh điểm sóng chủ bằng ngang, tương đương khi bắt mạch
thấy dưới tay như có sợi dây đàn kéo căng, các mạch khác như: Trì, Sác, Hoạt,
Sáp, Khẩn, Tế, Đại... ở những bảng ghi được đã phản ánh các đặc điểm khác nhau.
Gần đây, theo những
nguyên lý sàn sinh ra mạch tượng cũng đã tích luỹ được một số tài liệu.
Tâm chuyển xuất
lượng của mạch phù là tăng thêm, mà đàn tính trở lực của huyết quản lại giảm
thấp. Ở điện tâm đồ cho thấy:
- Mạch trầm: điện áp
giảm xuống
- Mạch trì: thực
tính tâm động quá chậm
- Mạch sác: thực
tính tâm động quá nhanh
- Mạch hư, nhược, vô
lực, đa số do chuyển huyết lượng giảm ít, huyết quản trở lực giảm thấp, huyết áp
rất thấp.
- Mạch nhược: điện
áp giảm thấp
- Mạch tế mà có lực,
phần nhiều là huyết quản trở lực tăng cao mà tâm chuyển huyết lượng giảm ít.
Mạch huyền: Đại đa
số là tâm chuyển huyết lượng và huyết quản trở lực đều tăng cao, nhưng huyết áp
tăng cao chỉ chiếm số nửa. Do đó ta thấy nhân tố hình thành mạch huyền rất phức
tạp.
- Mạch có sức không
nhất định là huyết áp tăng cao.
- Mạch: súc, kết,
đại chủ yếu là bệnh biến của bản thân tâm tạng làm thành (các hình thái của loạn
nhịp tim)
Ở người bệnh khác nhau: Kết mạch điện trên điện tâm đồ thường xuất hiện 4 loại
biến hoá: Phòng tính co rút thời kỳ đầu: tâm phòng run rẩy, thất tính co rút
thời kỳ đầu; và hoàn toàn tính đường chuyển phòng thất ứ trệ. Mạch đại hoặc có
tâm phòng run rẩy, hoặc có thất tính co rút thời kỳ đầu, hoặc có ống chia đường
chuyển phòng thất trở ngại. Mạch súc lại kiêm có tim đập quá nhanh.
B. SỜ NẮN (XÚC CHẨN)
Xúc chẩn chủ yếu có
sờ nắn ngực bụng để thấy mềm, cứng, có đau hay không, có hòn cục hay không; sờ
nắn tứ chi để xem có gãy xương, bong gân hay không; sờ nắn da xem mát hay nóng;
sờ nắn kinh mạch xem có phản ứng bệnh lý hay không.
- Sờ bụng để chẩn về
bụng đau:
+ Sờ mà giảm đau là
chứng hư
+ Sờ mà đau tăng là
chứng thực
+ Nơi đau mềm mại là
chứng hư
+ Nơi đau cứng rắn
là chứng thực
- Sờ da để chẩn, chủ
yếu là xem độ ấm của da
+ Mu bàn tay, bàn
chấn nóng hơn là âm hư, nội nhiệt
+ Tứ chi lạnh là
dương hư
+ Trẻ em sốt cao mà
đầu ngón tay lạnh là có thể co giật
+ Khi ỉa chảy mà
mạch tế nhược, chi lạnh, là ỉa chảy rất khó cầm, chân tay ấm áp thì ỉa chảy rất
dễ cầm.
Sờ nắn kinh lạc: là
sờ ấn các huyệt trên kinh lạc, để tìm điểm phản ứng bệnh lý, theo phương pháp
chẩn đoán trị liệu của kinh lạc ở phép châm cứu đã nói rõ.
KẾT LUẬN
Khi
vận dụng tứ chẩn cần đem cả 4 phương pháp kết hợp hữu cơ, không thể thiên lệch.
Mạch chẩn tuy là phương pháp đặc thù của Đông y, nhưng không được thần thánh
hoá, chỉ dựa vào mạch chẩn để chẩn đoán bệnh tật.
|