1. Thế nào là cách chữa bệnh bằng châm cứu?
Châm và cứu là hai
phương pháp chữa bệnh có rất sớm ở phương Đông. Người ta dùng kim thuộc chế
thành các loại kim khác nhau, châm ở những bộ phận đặc biệt trên cơ thể con
người (huyệt vị); sau khi châm vào da thịt, căn cứ vào bệnh tình và thể chất
người bệnh khác nhau mà dùng thủ pháp dùng phù hợp nhằm đạt đến mục đích thông
kinh hoạt lạc, khử tà phù chính (khử bệnh tật, nâng cao sức đề kháng của cơ thể)
mà chữa bệnh, phương pháp này gọi chung là châm. Còn như dùng lá ngải khô đẻ chế
thành ngải nhung, rồi lại dùng ngải nhung chế thành viên to nhỏ như mồi ngải,
hoặc cuốn thành điếu ngải, đốt lửa xong trực tiếp hoặc gián tiếp hơ hoặc đặt lên
huyệt vị nhất định trên cơ thể người bệnh, thông qua sự kích thích ấm nóng này
làm cho thông kinh lạc, đạt mục đích chữa bệnh và dự phòng bệnh tật, phương pháp
này gọi là làm ngải cứu.
Hai phương pháp trên
tuy khác nhau, nhưng lại sử dụng huyệt vị giống nhau, có khi cùng châm và cứu,
thông thường gọi là phép châm cứu.
2. Ưu điểm của phương pháp châm cứu
Châm cứu là phương
pháp chữa bệnh được nhân dân lao động rất ưa thích từ mấy ngàn năm nay vì nó có
rất nhiều ưu điểm:
a. Giản tiên: không cần dụng cụ gì đặc biệt, chỉ cần mấy cây
kim và một ít ngải nhung ( hoặc điếu ngải cứu ) và bông cồn hoặc tỏi củ, là bất
kể ở đâu, trên tàu xe, trong xí nghiệp, ngoài đồng ruộng hay trong nhà, trong
doanh trại hay ngoài chiến trường, đều có thể tuy lúc, tuỳ nơi mà chữa bệnh.
Thiết bị đơn giản, sử dụng thuận tiện, đồng thời lại giảm được thuốc men, bớt
được chi phí cho người bệnh.
b. Dễ học, dễ làm:
Học tập châm cứu, chỉ cần ghi nhớ được vị trí của
huyệt và tác dụng của nó, thành thạo phương pháp thao tác, hiểu biết về bệnh tật
là có thể chữa cho người bệnh được. Bắt đầu học cũng rất dễ, bắt đầu làm cũng
không khó khăn.
c. Phạm vi chữa rất rộng: Phạm vi chữa bệnh của phép châm cứu rất
rộng, không kể nội khoa, ngoại khoa, phụ khoa, nhi khoa cùng với ngũ quan, da
liễu, đều có thể chữa được, trong đó một số bệnh chữa bằng châm cứu rất có hiệu
quả.
d. An toàn, tin cậy: Chỉ cần chú ý sát trùng, theo đúng thao tác châm
cứu để tiến hành chữa bệnh sẽ không sảy ra vấn đề ghì mất an toàn.
3. Nguồn gốc của phép chữa bệnh bằng châm cứu
Châm cứu là một bộ
phận trong di sản y học phương Đông do con người sáng lập và phát triển trong
quá trình đấu tranh lâu dài với bệnh tật. Nó bắt đầu từ thời kỳ nào ? Hiện nay
niên đại cụ thể của nó từ lúc có mầm mống ta chưa xác định được. Nhưng theo quy
luật phát triển xã hội ở phương Đông và kết quả điều tra khảo cổ học thì có thể
chứng minh phép châm cứu bắt đầu có từ thời kỳ đồ đá.
Người ta dự đoán
rằng trong sinh hoạt, lao động thường ngày của con người thượng cổ, khi trên
thân thể có một số bộ phận bị hòn đá gây thương tích cũng là lúc giải trừ hoặc
giảm nhẹ đau đớn của bệnh tật vốn có trong cơ thể, hoặc khi đã bị bệnh, họ lấy
hòn đá có mũi nhọn làm gai khêu bọc mủ và gõ vào gân xương để giảm bớt đau đớn.
Trải qua lâu ngày, trong mọi người hình thành khái niệm dùng Phiếm thạch chữa
bệnh. Trải quan hàng trăm ngàn năm, rất nhiều thực nghiệm và kinh nghiệm chữa
bệnh ở lâm sàng được tích luỹ lại; thêm vào đó là công cụ được cải tiến theo
thời kỳ chuyển đồ đá sang đồ sắt, kim bằng sắt chữa bệnh được sáng tạo, từ đó mà
hình thành kỹ thuật châm kim chữa bệnh.
Hình thành phép cứu
có thể gắn liền với việc loài người phát minh ra lửa. Khi người ta đun nướng đồ
ăn, do ấm nóng kích thích da thịt, nhân đấy mà giảm nhẹ hoặc hết đi những đau
đớn của bệnh tật vốn có trong thân thể họ, từ đó đem lại cho họ một ấn tượng ghi
nhớ rằng, hơ lửa cũng có thể chữa bệnh.
Thông qua quan sát
lâu dài bằng mắt, người ta tìm thấy được ngải là loại thuốc tốt nhất đẻ cứu
chữa bệnh, đồng thời cũng phát hiện phạm vu chủ trị của ngải và bộ phận có
hiểu quả. Thời gian càng lâu, kinh nghiệm càng nhiều, đương nhiên hình thành
trên lâm sàng một phương pháp chữa bệnh bằng ngải cứu.
4. Tóm tắt quá trình phát triển của phép chữa
bệnh bằng châm cứu
Phép chữa bệnh bằng
châm cứu cũng giống như các môn khoa học khác, tuỳ theo diễn biến khác nhau của
lịch sử mà phát triển.
Mới đầu, ở thời đại
Xuân Thu Chiến Quốc, theo chế độ kinh tế xã hội phát triển, dụng cụ châm không
ngừng cải tiến, tổng kết kinh nghiệm, sáng lập học thuyết, viết sách kinh điển
về châm cứu, là thời kỳ hoàn thiện học thuyết châm cứu.
Đến thời Tần, Hán,
đã có Nội kinh ra đời, gồm Tô Vấn, Linh Khu là hai bộ phận, trong đó có
Linh Khu đã ghi lại hầu hết các tài liệu về châm cứu.
Người triều Tấn có
Châm cứu giáp ất kinh, trong đó lấy các thành tựu châm cứu học từ thời Tần,
Hán trở lại rồi chỉnh lý, kết hợp với kinh nghiệm lâm sàng mà viết thành.
Đời Đường có 'Thiên
kim yếu phương và Thiên kim dực phương trong đó bàn rất tỉ mỉ về phép châm
cứu, về khổng huyệt và châm kỵ....
Triều Tống có Đồng
nhân du huyệt châm cứu đồ kinh, kèm theo có hai bảng ghi chú Kinh huyệt đồng
nhân. Đó là thời kỳ thịnh của học châm cứu trên lịch sử.
Người đời Minh có
châm cứu tụ anh phát huy, châm cứu đại thành.
Đời nhà Thanh và
Trung Hoa Dân Quốc, phép chữa bệnh bằng châm cứu không còn được như trước đời
Thanh. Khi văn hoá phương Tây xâm nhập phương Đông, y học phương Đông bị khinh
miệt, học thuật châm cứu càng bị coi thường, có nguy cơ bị diệt vong.
Sau chiến tranh thế
giới thứ hai, các nước phương Đông được giải phóng, nền y học cổ truyền được
phục hồi và phát triển.
Ở Việt Nam, với
chính sách của Đảng và Nhà nước ta về kết hợp Đông tây y, việc kế thừa truyền
thống y học cổ truyền được áp dụng rộng rãi trong đời sống xã hội, làm cho học
thuật châm cứu phát triển rộng rãi và có nhiều thành tựu mới.
|