Học thuyết Kinh lạc
là một bộ phận trọng yếu trong lý luận cơ bản của y học phương Đông. Nó và Âm
Dương, Tạng tượng, Vệ - Khí - Doanh - Huyết, gộp lại hình thành hệ thống lý luận
của Đông y. Thông qua các mặt nguyên nhân bệnh, bệnh lý, chẩn đoán và trị liệu,
bất luận là nội, ngoại, châm cứu, đều cần nắm vững lý luận kinh lạc, chỉ có như
thế mới có thể phát huy tác dụng to lớn trên lâm sàng.
1. Thế nào gọi là kinh lạc ?
Nói đơn giản về kinh lạc là: Trên thân mình người ta, cứ
một tạng phủ bên trong và bề mặt bên ngoài có mối quan hệ thông lạc. Nói cụ
thể hơn thì kinh là một đường dây chăng, mỗi một tạng phủ đều có một đường kinh
riêng của nó. Nói chung là nó đan dọc trên dướ, thông đạt trong ngoài, mà có
đường tuần hành nhất định, (theo một đường nhất định mà đi gọi là tuần hành),
mỗi một kinh lại phân bố một số huyệt vị. Lạc là do ở đường kinh có phân bố ra
rất nhiều chi nhỏ, số lớn là lưới ngang không mấy chỗ là không có thông, giống
như một cái lưới bao bọc lấy toàn thân, làm cho kinh này với kinh khác có quan
hệ với nhau. Do vậy, kinh lạc ở trong ngoài, trên dưới, phải trái, trước sau của
cơ thể có quan hệ tương hỗ chung, làm cho tạng phủ trong cơ thể và các tổ chức
khí quan các nơi ngoài cơ thể có cùng một quan hệ, duy trì các hoạt động sống
được thống nhất và điều hoà.
Sự phân biệt kinh và
lạc được quy nạp như sau:
Phân loại |
Tuần hành |
Nơi đi |
Số lượng |
Kinh mạch |
dọc cơ thể |
ở sâu |
ít |
Lạc mạch |
Ngang cơ thể |
ở nông |
Nhiều |
Về hình tượng mà
nói, kinh lạc hầu như có liên quan đến mọi nơi của cơ thể, do đó cũng có tác
dụng hai mặt:
Một là có tác dụng
giúp vận hành khí huyết, sức hoạt động công năng của con người như giơ tay cầm
nắm các vật, óc suy nghĩ vấn đề, chủ yếu là dựa vào khí huyết đưa đẩy. Khí
huyết có thể đưa đẩy đều đặn đến toàn thân là thông qua đường kinh lạc chuyển
đạt.
Mặt nữa là có tác
dụng làm chuyển biến tật bệnh. Do kinh lạc là nơi thông suốt giữa tạng phủ bên
trong cơ thể và bề mặt bên ngoài của con người gọi là thông lạc, cho nên không
những nó đem những bệnh tật bên ngoài chuyển dần vào trong, như bên ngoài bị
lạnh có thể dẫn đến ho hắng và đau bụng, lại còn đem những bệnh biến của tạng
phủ phản ảnh trên bề mặt ngoài cơ thể. Ở những nơi đường kinh thuộc tạng phủ đó
tuần hành có xuất hiện chứng trạng, có thể theo đó chuẩn đoán bệnh ở kinh nào,
tạng nào, phủ nào. Phép chữa bệnh bằng châm cứu cũng căn cứ vào quan hệ của kinh
lạc, theo nội tạng và huyệt vị hữu quan mới đạt đến mục đích chữa khỏi bệnh.
Visd dụ: châm huyệt Túc tam lý ở chân có thể chữa đau dạ dày, vì huyệt Túc tam
lý ở trên kinh mạch túc dương minh vị, khi mạch này đi từ đầu, mặt xuống qua
ngực, bụng, đùi, chân. Châm huyệt Hợp cốc trên bàn tay có thể chữa đau răng vì
huyệt này ở trên kinh mạch thủ dương minh đại trường, kinh mạch này đi từ ngón
tay, lên qua vai, cổ, đến mặt. Do đó có thể thấy kinh lạc có địa vị trọng yếu
trong phép chữa bệnh bằng châm cứu.
Sau đây là phần giới
thiệu nội dung kinh lạc, gồm có 12 kinh mạch và 8 mạch kỳ kinh.
2. Mười hai kinh mạch
Mười hai mạch cũng
gọi là chính kinh. Vì trong cơ thể có tâm, can, tỳ, phế, thận, tâm bào là 6
tạng, có đảm, vị, đại trường, tiểu trường, bàng quang, tam tiêu là 6 phủ, cộng
12 tạng phủ. Mỗi một tạng phủ đều có một kinh phụ thuộc nó, cộng có 12 kinh nên
gọi là chính kinh. Tên gọi của chính kinh đều lấy tên tạng phủ của nó mà đặt như
tâm kinh, can kinh, đảm kinh, vị kinh...
Theo học thuyết âm
dương trong Đông y mà nói thì 6 tạng đều thuộc âm: phế và tỳ là thái âm, tâm và
thận là thiếu âm, can và tam tiêu là thiếu dương, vị và đại trường là dương
minh.
Sáu tạng và đường
tuần hành của âm kinh thuộc về nó đều ở mặt âm của tứ chi (mặt trong của chi).
Mức độ âm dương nhiều ít của tên đường kinh là do vị trí đường kinh trên chi thể
có mức độ nhiều ít của mặt dương, âm mà định. Độ lớn dần của âm dương theo chiều
hướng vận động chung của vũ trụ, bên trái lớn dần theo chiều ngược kim đồng hồ,
bên phải lớn dần theo chiều thuận kim đồng hồ; ở mặt dương từ dương minh, qua
thiếu dương tới thái dương, ở mặt âm từ thiếu âm, qua quyết âm tới thái âm; đồng
thời, do kinh mạch âm dương phân bố ở tứ chi cho nên đường tuần hành ở chi trên
gọi là thủ kinh, tất cả là thủ tam âm kinh, thủ tam dương kinh; đường tuần hành
ở chi dưới gọi là túc kinh, tất cả là túc tam âm kinh, túc tam dương kinh gộp
chung cả lại là 12 kinh, cho nên thường gọi là 12 kinh mạch chính.
A. ĐƯỜNG TUẦN HÀNH CỦA 12 KINH MẠCH.
Đường tuần hành của
12 kinh mạch có thể chia ra làm bốn loại:
- Thủ tam âm kinh là
thủ thái âm phế kinh, thủ quyết âm tâm bào kinh, thủ thiếu âm tâm kinh, cả ba
kinh mạch này đều đi từ ngực ra theo mặt âm của chi trên đến đầu chót các ngón
tay.
- Thủ tam dương kinh
là thủ dương minh đại trường kinh. Cả ba kinh mạch này đều từ đầu chót ngón tay
đi ven theo mặt dương của chi trên lên đến đầu.
- Túc tam dương kinh
là túc dương minh vị kinh, túc thiếu dương đảm kinh, túc thái dương bàng quang
kinh. Cả 3 kinh mạch này đều từ đầu đi qua lưng trên, ven theo mặt trước mặt bên
và mặt sau của cạnh ngoài chi dưới, xuống đến ngón chân.
- Túc tam âm kinh là
túc thái âm tỳ kinh, túc thiếu âm thận kinh. Cả 3 kinh mạch này đều từ đầu ngón
chân, ven theo mặt trước, trong và mặt sau của cạnh trong chi dưới đi lên đến
bụng.
B. THỨ TỰ NỐI TIẾP CỦA CÁC ĐƯỜNG KINH VÀ GIỜ TUẦN HÀNH KINH KHÍ
Hoạt động kinh phí
phụ thuộc vào hoạt động công năng của tạng phủ hoạt động công năng của tạng phủ
lại tuân theo một cho trình thời gian trong ngày, người ta đã ghi nhận được chu
trình hoạt động đó thành bài ca như sau: - Phế dần, đại mão vị thìn cung - Tỳ
tỵ, tâm ngọ, tiểu mùi trung - Thân bàng, dậu thận, tâm hào tuất - Hợi tam, tý
đảm, sửu can thông.
Nay đem diễn giải
thành bảng theo giờ thông dụng như sau:
Giờ Dần |
(Từ 3 - 5 giờ sáng) |
Thủ thái âm phế kinh
tuần hành |
Giờ mão |
(Từ 5 - 7 giờ sáng) |
Thủ dương minh đại
trường kính tuần hành |
Giờ Thìn |
(Từ 7 - 9 giờ sáng) |
Túc dương minh vị kinh
tuần hành |
Giờ Tỵ |
(Từ 9 - 11 giờ sáng) |
Túc thái âm tỳ kinh tuần
hành |
Giờ Ngọ |
(Từ 11 - 13 giờ trưa) |
Thủ thiếu âm tâm kinh
tuần hành |
Giờ Mùi |
(Từ 13 - 15 giờ chiều) |
Thủ thái dương tiểu
trường kinh tuần hành |
Giờ Thân |
(Từ 15 - 17 giờ chiều) |
Túc thái dương bàng
quang tuần hành |
Giờ Dậu |
(Từ 17 - 19 giờ tối) |
Túc thiếu âm thận kinh
tuần hành |
Giờ Tuất |
(Từ 19 - 21 giờ tối) |
Thủ quyết âm tâm bào
kinh tuần hành |
Giờ Hợi |
(Từ 11 - 23 giờ đêm) |
Túc thiếu dương tam tiêu
kinh tuần hành |
Giờ Tý |
(Từ 23 - 01 giờ đêm) |
Túc thiếu dương đảm kinh
tuần hành |
Giờ Sửu |
(Từ 01 - 03 giờ sáng) |
Túc quyết âm can kinh
tuần hành |
C. BIỂU LÝ TƯƠNG PHỐI CỦA 12 KINH MẠCH
Trong 12 kinh mạch
thì cứ một âm kinh phối hợp với một dương kinh, như vậy gọi là biểu lý tương
phối (cũng gọi là âm dương tương phối). Kinh mạch tương phối khi tuần hành ở
ngón tay, ngón chân thì nối tiếp nhau, vì nội tạng mà nó sở thuộc cũng cùng quan
hệ tương hỗ ảnh hưởng. Trên lâm sàng, huyệt vị ở bản kinh có thể trị bệnh ở bản
kinh, còn có thể dùng để trị bệnh ở một kinh khác cùng tương phối với nó. Như
thủ dương minh đại trường kinh và thủ thái âm phế kinh cùng biểu lý, lấy huyệt
Xích trạch ở phế kinh để chữa ho hắng, lại cũng trị được bệnh lỵ. Lại như túc
thái âm kỳ kinh và túc dương minh vị kinh cùng biểu lý, lấy huyệt Túc tam lý ở
vị kinh có thể chữa được đau dạ dày, lại cũng chữa được ỉa chảy. Những ví dụ như
trên đã nói lên rằng âm kinh và dương kinh có quan hệ biểu lý tương phối rất mật
thiết.
Bảng tương phối của
12 kinh mạch
Thủ thái
âm phế kinh |
tương
phối với thủ dương minh đại đường kinh |
Thủ
thiếu âm tâm kinh |
tương
phối với thủ thái dương tiểu trường kinh |
Thủ
quyết âm tâm bào kinh |
tương
phối với thủ thiếu dương tam tiêu kinh |
Túc thái
âm tỳ kinh |
tương
phối với túc dương minh vị kinh |
Túc
thiếu âm thận kinh |
tương
phối với túc thái dương bàng quang kinh |
Túc
quyết âm can kinh |
tương
phối với thiếu dương đảm kinh |
D. ĐẦU CUỐI CỦA 12 KINH MẠCH VÀ CHỦ TRỊ
Như trên đã nói qua,
12 kinh mạch có đường tuần hành nhất định và các kinh đều phản ánh bệnh tật ở
bản tạng hoặc bản phủ, phần này nói đến đường đi cụ thể và chủ trị một số bệnh
tật.
Thủ thái âm phế kinh
Gồm có 11 huyệt, cả
hai bên là 22 huyệt. Kinh mạch bắt đầu từ trung tiếu (dạ dày, Trung quản), hướng
xuống đại trường có một đường lạc nối, rồi lại từ đại trường đi trở lại một
đường nông ngoài đi lên trên cổ dạ dày, ven theo cổ dạ dày xuyên lên qua cơ
hoành cách, vào phế tạng, lại từ phế tạng lên đến cạnh hầu, lại đi ngang ra đến
phía dưới hố đòn, ven theo cạnh trong cánh tay trên đi xuống qua hốc khuỷu tay,
ven theo cạnh trong phía trước xương quay, đến cổ tay ở thốn khẩu, từ thốn khẩu
đi đến mô cái, ven theo mô cái đi đến cạnh đầu ngón cái (Thiếu dương).
Mạch nhánh, từ sau
cổ tay (Liệt khuyết) phân ra hướng theo phía mu bàn tay đi thẳng đến đầu ngón ở
cạnh trong là huyệt Thương dương.
Quan hệ tạng phủ:
kinh này từ ngực ra tay, thuộc phế, (bản kinh thuộc phế tạng), đường lạc sang
đại trường (kinh này và kinh đại trường cùng nối tiếp nhau), đi qua hoành cách,
có quan hệ với thận và vị.
Chủ trị: ho hắng,
hen xuyễn, hụt hơi, khái huyết, hầu họng, sưng đau, trúng gió, tức ngực, hố trên
xương đòn và cạnh trong phía cánh tay đau, tế, bả vai buốt lạnh.
THỦ DƯƠNG MINH ĐẠI
TRƯỜNG KINH
Gồm có 20 huyệt, hai
bên là 40 huyệt. Kinh mạch tuần hành bắt đầu từ (huyệt Thương dương) ở cạnh
trong đầu ngón tay trỏ, đi theo cạnh ngón vào khe xương bàn 1 - 2 (Hợp cố) rồi
đi lên qua cạnh trước cẳng tay, qua cạnh ngoài khuỷu tay, cạnh ngoài cánh tay
trên, đến mỏm qua, đi lên phía sau vai giao hội vào huyệt Đại chuỳ ở đốc mạch,
lại gập ngược lại hướng về hõm ức xuống phổi, rồi xuyên qua cơ hoành, tới đại
trường.
Mạch nhánh, từ hóm
ức lên đến cạnh cổ (sau kinh vị) thông qua mặt (sau Đại nghinh) tiến vào trong
hàm dưới, lại chuyển ngược ra ngoài lên rãnh môi trên, thông qua huyệt Địa
thương ở kinh vị, hai bên giao hội lại ở huyệt Nhân trung (chính giữa rãnh nhân
trung), kinh mạch bên trái đi về phía bên phải, kinh mạch bên phải đi về phía
bên trái, riêng rẽ đi lên đến cạnh cánh mũi (là huyệt Nghinh hương) thì dứt.
Quan hệ tạng phủ:
bản kinh từ tay lên đến đầu, thuộc đại trường, đường lạc sang phế, lại có quan
hệ trực tiếp với vị.
Chủ trị: Đau bụng,
sôi bụng, ỉa chảy, lỵ, hầu họng sưng đau, răng đau, mũi chảy nước trong, chảy
máu mũi, đau trước vai, đau ngón tay trỏ, sốt nóng hoặc rét run.
TÚC DƯƠNG MINH VỊ
KINH
Gồm 45 huyệt, cả hai
bên là 90 huyệt. Kinh mạch tuần hành bắt đầu từ rãnh môi mũi ở cạnh mũi (Nghinh
hương), từ cạnh mũi đi lên đến khoé mắt đi xuống qua cạnh ngoài của cánh mũi
tiến vào đến lợi trên, rồi chuyển về qua vòng môi, xuống dưới giao hội với điểm
giữa môi dưới (Thừa tương) chuyển lui qua ven cạnh sau phía dưới xương hàm dưới,
đến phía dưới trước góc hàm dưới (Giáp xa) hướng đi lên tản ra trước tai, đi qua
cung gò má ở trước tai, ven theo bờ tóc lên đến góc trán (Đau duy), cuối cùng ở
trước trán giao hội với đốc mạch ở huyệt Tiền đình.
Mạch chánh ở trên
mặt, từ giữa hàm dưới (Đại nghinh) hướng xuống cổ cạnh hầu (Nhân nghinh), ven
theo cạnh hầu tiến vào lõm ức, đi xuống phía trong qua cơ hoành tới vị và liên
hệ với tỳ tạng.
Mạch ở lõm ức đi
thẳng từ chỗ lõm của xương đòn xuống cạnh trong của đầu vú, đi thẳng xuống cạnh
ngoài rốn 2 thốn, đến phía trên xương mu ở rãnh háng, chỗ huyệt Khí xung.
Mạch nhánh miệng
dưới của dạ dày đi sâu trong ổ bụng, hướng xuống huyệt Khí xung rồi cùng gặp
nhau đi xuống, thẳng đến phía trên đùi, xuống qua xương bánh chè, ven theo cạnh
ngoài đầu ngón chân thứ hai.
Mạch nhánh ở bàn
chân, từ mu bàn chân (Xương dương) phân ra đi xuống đến cạnh trong đầu ngón cái
(Ẩn bạch).
Quan hệ tạng phủ:
kinh này từ đầu xuống chân, thuộc vị, đường lạc sang tỳ, có quan hệ trực tiếp
với tâm, trường và tiểu trường.
Chủ trị: Sôi bụng,
chướng bụng, đau dạ dày, nôn mửa, chảy máu mũi, liệt mặt, hầu họng sưng đau, đau
ngực bụng, đau ở những nơi đường kinh đi qua, sốt cao.
Huyệt vị ở kinh này
ngoài tác dụng chữa cục bộ và xung quanh, cái chính yếu là chữa bệnh ở dạ dày và
ruột. Phàm thân thể suy nhược, vị khí kém, đều có thể châm huyệt của túc dương
minh vị kinh. Dương minh là kinh nhiều khí, nhiều huyết, chủ làm tươi mát các
gân, vì vậy huyệt vị ở kinh có thể chữa các chứng tê bại, gân co rút.
TÚC THÁI ÂM TỲ KINH
Gồm có 21 huyệt, cả
hai bên là 42 huyệt. Kinh mạch tuần hành bắt đầu từ cạnh trong đầu ngón chân cái
(ẩn bạch) ven theo đó đi lên qua bờ trước mắt cá trong, phân bố đến phía sau
cẳng chân, men theo cạnh sau xương chày, chéo qua mặt trước của túc quyết âm can
kinh đi lên qua cạnh trong khớp gối đến phía trước cạnh trong đùi, đi lên cạnh
ngoài bụng (cách đường trục giữa bụng là 4 thốn) vào tỳ tạng, có liên lạc thêm
sang vị, lại hướng lên đi qua cơ hoành, lồng ngực, qua hai bên hầu họng, đến
cuống lưỡi, tản vào phía dưới lưỡi.
Mạch nhánh ở vị, từ
dạ dày phân ra đi lên thông qua cơ hoành, mạch khí đi luôn tới trong tâm tạng.
Quan hệ tạng phủ: kinh này đi từ chân lên đến đầu, thuộc
tỳ, đường lạc sang vị, có thêm quan hệ trực tiếp với tâm, phế đại trường và tiểu
trường.
Chủ trị: chướng
bụng, đau dạ dày, nôn mửa, ỉa chảy, đầy hơi, vàng da, cứng lưỡi, đau tức cạnh
trong đầu gối và đùi.
Phàm chữa rối loạn
tiếu hoá, phân nát đau dạ dày, ngoài những huyệt trên kinh vị ra cần lấy thêm
huyệt ở kinh tỳ mới nâng cao hiệu quả. Ngoài ra cũng còn chủ trị chứng thấp,
bệnh phụ nữ.
THỦ THIẾU ÂM TÂM
KINH
Gồm 9 huyệt, hai bên
là 18 huyệt. Kinh mạch bắt đầu từ trong tim (hệ thống tim và các mạch có liên
quan tới tạng phủ khác), hướng xuống thông qua hoành cách cùng nối tiếp với
kinh thủ thái dương tiểu trường.
Mạch nhánh của hệ
tâm, từ hệ tâm phân ra đi lên cạnh thực quản, lên đến hệ mắt (là mạch có quan hệ
tới mắt và não).
Mạch của hệ tâm đi
từ tim thẳng đến tạng , đi chéo ra mặt dưới hố nách ven theo mặt sau của cạnh
trong cánh tay, qua khuỷu tay, qua chỗ khớp cổ tay, chỗ xương trụ và xương đầu
cao lên, tiến vào bàn tay ở khe bàn ngón 4 - 5 rồi ra cạnh trong ngón tay út ở
đầu ngón (Thiết xung).
Quan hệ tạng phủ:
kinh này từ ngực ra tay, thuộc tâm, đường lạc sang tiểu trường, có thêm quan hệ
trực tiếp với phế và thận.
Chủ trị: đau tim,
miệng khát, mắt vàng, sườn đau, hoặc cạnh trong bàn tay đau, lòng bàn tay nóng.
THỦ THÁI DƯƠNG TIỂU
TRƯỜNG KINH
Gồm 19 huyệt, hai
bên là 38 huyệt. Kinh mạch tuần hành bắt đầu từ cạnh ngoài đầu ngón tay út
(Thiếu trạch), ven theo cạnh ngoài bàn tay, đến chỗ cổ tay, qua giữa lồi cầu
xương trụ lên đến phía sau cẳng tay, qua khuỷu tay ở chỗ giữa mỏm khuỷu tay và
mỏm khớp xương cánh tay, đi ven lên cạnh ngoài phía sau cánh tay, đến mặt sau
khớp vai, đi nông cả phía trên và dưới gờ xương bả vai, giao hội với huyệt Đại
chuỳ ở đốc mạch, rồi gập lại phía trước tai (Thích cung) rồi vào trong tai.
Mạch nhánh ở má, từ
góc mặt phân ra hướng về phía dưới ổ mắt tới khoé trong mắt chỗ hốc mũi.
Quan hệ tạng phủ:
kinh này từ tay lên đầu, thuộc tiểu trường, đường lạc sang tâm, có thêm quan hệ
trức tiếp với vị.
Chủ trị: tai điếc,
mắt vàng, cổ sưng, họng đau, bụng dưới đau, vai và phía sau cánh tay đau.
TÚC THÁI DƯƠNG BÀNG
QUAN KINH
Gồm 67 huyệt, hai
bên là 134 huyệt. Kinh mạch tuần hành bắt đầu từ khoé mắt trong (Tinh minh) lên
thẳng trước trán đến sau đỉnh đầu (Bách hội), lại từ đỉnh đầu đến góc trước tai.
Kinh đi thẳng từ đình đầu thông vào não rồi trở lại, hướng ra phía sau đỉnh chia
làm hai nhánh.
Mạch nhánh thứ nhất đi ven theo cạnh trong bắp thịt bả vai
dựa theo gần sát cột sống, (cách đều cột sống là 1,5 thốn) đi thẳng xuống đến
thắt lưng, theo cạnh cột sống 1,5 thốn qua mông, tiến xuống lõm khoeo sau đầu
gối.
Mạch nhánh thứ hai:
từ sau gáy ven theo cột sống cách đều 3 thốn (cạnh trong xương bả vai) đi xuống
qua mông, ven theo phía sau cạnh ngoài đùi đi thẳng xuống giao hội với nhánh thứ
nhất trong hố lõm khoe, từ đấy lại đi qua bụng chân, qua phía sau mắt cá ngoài
chân, đến chỗ lồi lõm kheo, từ đây lại đi qua bụng chân, qua phía sau mắt cá
ngoài chân, đến chỗi lồi xương bàn số 5, đến cạnh ngoài đầu ngón út chân (Chí
âm).
Quan hệ tạng phủ:
kinh này từ đầu đến chân, thuộc bàng quang, đường lạc sang thận, còn có thêm
quan hệ trực tiếp với não và tâm.
Chủ trị: đau đầu,
đau cột sống, đau lưng, đau đùi, đau chân, bắp chân co rút, sốt rét, đau mắt, ra
gió chảy nước mắt, tiểu tiện không thông, đái dầm, và bệnh tật ở những nơi đường
kinh đi qua ở chi dưới. (Bối du là du huyệt của lục phủ tạng trên đường kinh
bàng quang vùng lưng chủ trị bệnh biến của tạng phủ theo tên nó).
Túc thiếu âm thận
kinh
Gồm 27 huyệt, hai
bên là 54 huyệt. Kinh mạch tuần hành bắt đầu từ phía dưới ngón chân út, đi chéo
vào giữa chỗ lõm trước lòng bàn chân (Dũng tuyền) qua phía dưới chỗ lõm của
xương thuyền, qua phía sau của mắt cá chân đi xuống gót chân, từ đó đi lên theo
cạnh trong bắp chân, qua cạnh trong hố khoeo sau khớp gối, lên đến phía sau cạnh
trong đùi, tiến vào ổ bụng, ven cột sống, thông vào thận, liền sang bàng quang.
Mạch đi thẳng ở thận
tạng, hướng từ thận đi lên qua gan và cơ hoành vào phổi, đi lên hai bên cạnh
hầu, phân bố chỗ cuống lưỡi.
Mạch nhánh ở phổi.
Từ phế tạng phân ra cùng quan hệ với tâm tạng, phân chia thêm ra trong lồng
ngực, cùng nối tiếp với thủ quyết âm tâm
bào kinh.
Quan hệ tạng phủ:
Kinh này đi từ chân lên đến ngực, thuộc thận, đường lạc sang bàng quang. Có thêm
quan hệ trực tiếp với can, phế, tâm.
Chủ trị: đái dầm,
đái són, di tình, liệt dương, kinh nguyệt không đều, ho ra máu, hen lưỡi khô,
hầu họng sưng đau, đau lưng, phù thũng, xương sống và phía sau cạnh trong đùi
đau, mệt mỏi không có sức, lòng bàn
tay nóng.
THỦ QUYẾT ÂM TÂM BÀO
KINH
Gồm 9 huyệt, cả hai
bên là 18 huyệt. Kinh mạch tuần hành bắt đầu từ trong ngực ra, lại vào tới tâm
bào lạc, hướng xuống, qua cơ hoành xuống bụng, liên quan đến thượng tiêu, trung
tiêu, hạ tiêu.
Mạch nhánh ở ngực,
từ trong ngực phân bố ra xương sườn, đến dưới hố nách, đi ra giữa cạnh trong
cánh tay, vào giữa khớp khuỷu tay, ra cẳng tay, ở giữa cơ gấp cổ tay, cơ quay và
cơ dài, tiến vào giữa lòng bàn tay, ven theo cạnh trong ngón giữa ra đầu ngón
tay.
Phân nhánh ở giữa
lòng bàn tay, từ huyệt Lao cung phân ra ven theo ngón tay đeo nhẫn (ngón 4), ở
cạnh ngoài ngón (huyệt Quan xung).
Quan hệ tạng phủ:
kinh này đi từ ngực ra, thuộc về tâm bào, đường lạc sang tam tiêu.
Chủ trị: lòng bàn
tay phát nóng, cẳng tay và khớp khuỷu co rút, hố nách sưng, sườn ngực đầy tức,
tim đập mạnh, mặt đỏ.
THỦ THIẾU DƯƠNG TAM
TIÊU KINH
Gồm 23 huyệt, hai
bên là 46 huyệt. Kinh mạch tuần hành từ đầu cạnh ngoài ngón tay đeo nhẫn (Quan
xung), đi lên giữa khe xương bàn 4 - 5 trên mu bàn tay, ven theo lên giữa cổ
tay, tiếp tục đi lên phía ngoài cẳng tay, giữa xương trụ và xương quay, đi lên
qua mỏm khuỷu, lên cạnh ngoài cánh tay đến vai, giao hội với túc thiếu dương đảm
kinh ở mặt sau, phía trước tiến vào hõm vai, phân bố xuống giữa hai vú, mạch khí
chia ra nối liền với tâm bào, hướng xuống qua cơ hoành, từ ngực đến bụng, vào
tới thượng tiêu, tủng tiêu, hạ tiêu.
Mạch nhánh ở ngực:
từ chỗ Chiên trung phân ra, đi lên qua hõm vai, qua cạnh cổ, phân bố đến sau
tai, một hướng đi thẳng ra góc trên tai, lại cong xuống má mặt, đến dưới ổ mắt.
Mạch nhánh ở tai: từ
sau vành tai tiến vào trong tai, lại đi ra phía trước vành tai giao hội với mạch
nhánh ở ngực tại góc má mặt rồi đến cạnh ngoài lông mày, cuối cùng là góc ngoài
khoé mắt.
Quan hệ tạng phủ:
Thuộc tam tiee, đường lạc sang tâm bào
Chủ trị: bụng
chướng, phù nề, đái dầm, tiểu tiện khó, đau đầu, ù tai, đau hầu họng.
TÚC THIẾU DƯƠNG ĐẢM
KINH
Gồm 44 huyệt, hai
bên là 88 huyệt. Kinh mạch bắt đầu tuần hành từ khoé mắt bên ngoài, đi ra trước
tai, hướng lên đến góc đầu, lại hướng xuống phía sau tai rồi ngược lên cạnh đầu,
ven theo đầu cổ đến kinh thủ thiếu dương ở mặt trước, đến tận phía sau mi trên
thì lại quay trở lại, giao với thủ thiếu dương kinh ở mặt sau, rồi xuống vào hõm
vai.
Mạch nhánh ở tai. Từ
sau tai đi qua huyệt Ế phong của thủ thiếu dương kinh đi vào trong tai, lại ra
trước tai, đến sau khoé mắt ngoài, lại từ góc khoé mắt ngoài tách ra, hướng
xuống đến chỗ huyệt Đại nghinh, tại đây hợp chung với phía sau kinh thủ thiếu
dương tam tiên đến phía dưới ổ mắt, lại gập xuống qua chỗ huyệt Giáp xa để đến
cổ, và nhập vào gặp mạch chỗ lõm vai, từ lõm vai vào lồng ngực, qua cơ hoành,
nối liền cùng can tạng, về đảm, đi ven theo phía trong xương sườn, xuống rãnh
háng ở hai bên bụng dưới chỗ huyệt Khí xung, qua háng, gồ mu chui vào mấu chuyển
lớn xương đùi.
Mạch đi thẳng ở lõm
vai, từ lõm vai đi xuống đến trước hố nách men theo cạnh ngực qua xương sườn 11
xuống dưới nhập vào mạch trước ở mấu chuyển lớn xương đùi, từ đó đi xuống, ven
theo cạnh ngoài xương đùi, cạnh ngoài khớp gối, đi xuống mặt trước xương mác,
đến đầu dưới xương mác (Tuyệt cốt), đi hướng mặt trước mắt cá ngoài, ven trên mu
bàn chân và kết thúc ở cạnh ngoài đầu ngón chân 4 (Túc khiếu âm).
Mạch nhánh ở mu bàn chân, từ huyệt Túc lâm khấp trên mu
bàn chân tách ra ven theo khe xương cổ chân 1 và 2 đi ra sau góc móng ngón cái
(Đại đôn).
Quan hệ tạng phủ: thuộc tam tiêu, đường lạc sang tâm bào
Chủ trị: bụng chướng, phù nề, đái dầm, tiểu tiện khó, đau
đầu, ù tai, đau hầu họng, đâu góc ngoài mắt, cạnh ngoài vai và cánh tay đau.
Túc thiếu dương đảm kinh
Gồm 44 huyệt, hai bên là 88 huyệt. Kinh mạch bắt đầu tuần
hành từ khoé mắt bên ngoài, đi ra trước tai, hướng lên đến góc đầu, lại hướng
xuống phía sau tai rồi lại ngược lên cạnh đầu, ven theo đầu cổ đến kinh thủ
thiếu dương ở mặt trước, đến tận phía sau mi trên thì lại quay trở lại, giao với
thủ thiếu dương kinh ở mặt sau, rồi xuống vào hõm vai.
Mạch nhánh ở tai. Từ sau tai đi qua huyệt Iees phong của
thủ thiếu dương kinh đi vào trong tai, lại ra trước tai, đến phía sau khoé mắt
ngoài, lại từ góc khoé mắt ngoài tách ra, hướng xuống đến chỗ huyệt Đại nghinh,
tại đây hợp chung với phía sau kinh thủ thiếu dương tam tiêu đến phía dưới ổ
mắt, lại gập xuống qua chỗ huyệt Giáp xa để đến cổ, và nhập vào gặp mạch chỗ lõm
vai, từ lõm vai vào lồng ngực, qua cơ hoành, nối liền cùng can tạng, về đảm, đi
ven theo phía trong xương sườn, xuống rãnh háng ở hai bên bụng dưới chỗ huyệt
Khí xung, qua háng, gồ mu chui vào mấu chuyến lớn xương đùi.
Mạch đi thẳng ở lõm vai, từ lõm vai đi xuống đến trước hố
nách men theo cạnh ngực qua xương sườn 11 xuống dưới nhập vào mạch trước ở mấu
chuyển lớn xương đùi, từ đó đi xuống, ven theo cạnh ngoài xương đùi, cạnh ngoài
khớp gối, đi xuống mặt trước xương đùi, từ đó đi xuống, ven theo cạnh ngoài
xương đùi, cạnh ngoài khớp gối, đi xuống mặt trước xương mác, đến đầu dưới xương
mác (Tuyệt cốt)), đi hướng mặt trước mắt cá ngoài, ven trên mu bàn chân và kết
thúc ở cạnh ngoài, ven trên mu bần chân và kết thúc ở cạnh ngoài đầu ngón chân 4
(Túc khiếu âm).
Mạch nhánh ở mu bàn chân, từ huyệt Túc lâm khấp trên mu bàn
chân tách ra ven theo khe xương cổ chân 1 và 2 đi ra sau góc móng ngón cái (Đại
đôn).
Quan hệ tạng phủ: thuộc đảm, đường lạc sang can, có thêm
quan hệ trực tiếp với tâm.
Chủ trị: đau đầu, đau góc ngoài ổ mắt, phát sốt.
Túc quyết âm can kinh
Gồm 14 huyệt, hai
bên là 28 huyệt. Kinh mạch tuần hành bắt đầu từ cạnh ngoài góc móng ngón cái đi
lên hướng mu bàn chân, qua phía trước mắt cá trong khoảng hơn một thốn, đi lên
qua huyệt Tam âm giao đến chỗ cách mắt cá trong 8 thốn thì giao nhau đến kinh
túc thiếu âm tỳ rồi đi theo phía sau kinh túc thái âm tỳ lên đến cạnh trong đầu
gối, ven theo cạnh trong đùi lên đến gỗ mu, vòng qua âm, dương vật đến bụng
dưới, đi theo cạnh dạ dày, vào tới can tạng và cùng nối liền với đảm, kế tiếp
xuyên qua cơ hoành đến xương sườn lên ven khí quản, cạnh sau hầu tiến vào trong
mũi, sang hố mắt, hướng lên ra trước trán hợp lại với đốc mạch ở đỉnh đầu.
Mạch nhánh ở hệ mắt: từ hệ mắt đi xuống phía sau của góc
hàm vòng phía trong môi.
Mạch nhánh ở gan: từ can tạng chia ra, qua cơ hoành, đến
phế tạng.
Quan hệ tạng phủ: thuộc can, đường lạc sang đảm, có thêm
quan hệ trực tiếp với phế, vị, thận và não.
Chủ trị: đái dầm, tiểu tiện khó, đàn bà đau bụng dưới, đau
lưng, ỉa chảy, sán khí, bệnh thần kinh. Kinh này trị bệnh ở âm vật, dương vật là
chính, cũng trị các bệnh về mắt và sườn.
3. Tám mạch kỳ kinh
12 kinh mạch có quan hệ trực tiếp với nội tạng nên gọi là
chính kinh. Kỳ kinh là khoảng giao nhau của tất cả 12 kinh mạch, thông qua 12
kinh mạch mà phát sinh quan hệ gián tiếp với nội tạng, là kinh mạch ngoài chính
kinh. Vì nó khác với 12 kinh mạch nên gọi là kinh.
Mạch kỳ kinh là:
đốc, nhâm, xung, đới, âm duy, dương duy, âm kiều, dương kiều. Trong 8 mạch kỳ
kinh, chỉ có hai nhâm, đốc là đi thẳng ở giữa mặt trước, sau của cơ thể, chúng
có những huyệt chuyên thuộc của nó. Sáu kinh còn lại đều phụ theo ở 12 kinh mạch
kia, không có chuyên huyệt của từng kinh. Do tính chất trọng yếu của hai mạch
nhâm, đốc trong châm cứu, cho nên người ta gộp vào với 12 kinh mạch gọi cả là 14
kinh.
a. Đặc điểm sinh lý của tám mạch kỳ kinh
Tám mạch kỳ kinh là
một số thông lạc đặc thù của việc điều tiết vận hành khí huyết. Công năng chung
của nó là điều tiết huyết của 12 kinh mạch. Như khí huyết ở 12 kinh mạch đầy đủ
cũng đưa nhiều khí huyết cho tám mạch kỳ kinh chứa giữ. Những lúc 12 kinh mạch
thiếu khi huyết thì tám mạch kỳ kinh cấp bổ sung lại.
Mạch đốc tuần hành ở
chính giữa cột sống, các dương kinh ở tay chân trong 12 kinh mạch đều giao hội
với đốc mạch. Vì thế đốc mạch có tác dụng thống soái các dương kinh, do đó cũng
gọi là Dương kinh chi hải (bể chứa các dương kinh).
Mạch nhâm tuần hành
ở chính giữa bụng, ba kinh âm ở chân giao hội với nhâm mạch ở vùng dưới rốn. Vì
nhâm mạch có tác dụng tổng nhiệm âm kinh cho nên cũng gọi là âm cũng gọi là
kinh lạc chi hải (bể chứa các kinh lạc).
Đới mạch ở phía dưới
sườn, đi vòng quanh người như một cái vòng gai, có tác dụng thúc các kinh đi
đều.
Duy có nghĩa là
duy hệ (giữ mối liên lạc về một hệ), dương duy mạch bắt đầu từ gót chân ra mắt
cá ngoài gộp với túc thiếu dương đảm kinh đi lên liên hệ với các dương kinh; âm
duy mạch bắt đầu từ cạnh trong bắp chân, theo tú thái âm tỳ kinh đi lên quan hệ
với các âm kinh.
Kiều mạch có nghĩa
là mạch nhẹ nhõm và mạnh mẽ như cái cà kheo nối. Dương kiều mạch bắt đầu từ cạnh
ngoài gót chân song hành với túc thái dương kinh đi lên; âm kiều mạch bắt đầu từ
cạnh trong gót chân theo túc thiếu âm đi lên, cả hai có tác dụng làm cho chi thể
vận động được khoẻ (là sức giữ cho hai chân thẳng vững như hai cái cà kheo kẹp
trong ngoài chân).
b. Đầu cuối của tám mạch kỳ kinh và chủ trị của nó
Nhâm mạch
Gồm 24 huyệt. Kinh mạch bắt đầu tuần hành từ bụng dưới, ra
từ huyệt Hội âm, hướng lên gò mu đến Trung cực thì đi vào bụng, theo đường giữa
bụng đi lên vòng môi, qua hai má mặt và phía dưới ổ mắt thì dứt.
Chủ trị: bụng dưới
đau, bí đái, đái dầm, kinh nguyệt không đều, chảy máu dạ con, sán khí, hư thoắt,
đau dạ dày, ỉa chảy, ho hen.
Kinh này ngoài hai
huyệt Quan nguyên, Khí hải có tác dụng bồi bổ sức khoẻ toàn thân, các huyệt còn
lại nói chung chỉ có tác dụng chữa các bệnh cục bộ (bao gồm cả nội tạng nơi đó).
Đốc mạch
Gồm 28 huyệt. Bắt
đầu từ trong bụng dưới, đi ả từ Hội âm, phía sau đi lên theo phía trong cột
sống, lên thẳng phía sau gáy, đến Phong phủ thì vào não, lên đến đỉnh đầu, theo
trục giữa đi ra trước trán, xuống đến dưới đầu mũi đến phía trong môi trên thì
nối tiếp với nhâm mạch
Chủ trị: cấp cứu,
bệnh tình chí, đau đầu, lưng đau, uốn ván
Xung mạch
Xung mạch và nhâm
mạch cùng bắt đầu từ huyệt Hội âm, hướng đi lên ven theo cột sống trong sâu, tản
vào trong ngực, hội với hầu.
Chủ trị: khí xông
ngược lên, đau bụng
Đới mạch
Bắt đầu từ dưới sườn
cụt, vòng quanh thân một vòng kính
Chủ trị: trong bụng
đầy tức, phần lưng không mềm mại
Âm kiểu mạch
Cũng là một kinh
mạch được tách ra từ túc thiếu âm thận, bắt đầu từ phía sau huyệt Nhiên cốc, đi
thẳng lên đến cạnh trong đùi, vào cơ quan sinh dục, lên phía trong ổ bụng, nói
ra ở phía trước động mạch Nhân nghinh rồi nhập vào khoé mắt trong.
Chủ trị: chân bai ra
ngoài (ngoại phiên) liệt thần kinh khoeo trong.
Dương kiều mạch
Bắt đầu từ giữa gót
chân, ven theo mắt cá ngoài đi lên tới huyệt Phong trì ở túc thiếu dương đảm
kinh.
Chủ trị: chân bai
vào trong (nội phiên)
Âm duy mạch
Bắt đầu từ chỗ các
âm kinh giao hội, men theo cạnh trong đùi, bụng dưới, ven theo sườn, lên đến hai
bên họng
Chủ trị: đau tim
Dương duy mạch
Bắt đầu từ chỗ các
dương kinh giao hội, ven theo cạnh ngoài đầu gối, bụng dưới, bên cạnh, ven sườn
lên đến vai và khuỷu tay, đi qua phía trước vai, lên phía sau tai, xuống đến
trán.
Chủ trị: hàn nhiệt
|