Text Link Underline Remover
   
Tab
 Trang chủ    Giới thiệu chung    Hoạt động    Trung tâm y học cổ truyền    Sản phẩm    Tài liệu tham khảo   Liên hệ
     index noidung 1
DU HUYỆT VÀ PHÂN LOẠI DU HUYỆT




1. Thế nào là du  huyệt

Du huyệt cũng gọi là khổng huyệt, huyệt đạo, huyệt vị, kinh huyệt, khí huyệt. Chữ Du có nghĩa giống như luân, là chuyển luân (theo Tứ giác hiệu mà tân từ điển thì chữ Du có nghĩa là: đáp ứng các yêu cầu. Có thể định nghĩa này phù hợp với tính năng, tác dụng của huyệt vị hơn). Huyệt có nghĩa là một khoảng trống. Du huyệt là điểm trên bề mặt cơ thể thông với kinh lạc. Nó phân bố ở trên mặt đường kinh mạch và là nơi để châm cứu.

Tác dụng của du huyệt: về mặt chuẩn đoán, có thể theo nơi phân bố của nó thăm dò điểm phản ứng bề ngoài để tham khảo chuẩn đoán bệnh tật. Phép chữa bệnh bằng châm cứu trên lâm sàng là thông qua tác dụng của du huyệt và kinh lạc mà điều tiết tạng phủ, vận hành khí huyết để đạt mục đích chữa hoặc dự phòng bệnh tật.

2. Phân loại Du huyệt

Số du huyệt trên cơ thể người có rất nhiều, nhưng đại thể chia ra làm ba loại là: Kinh huyệt, Kỳ huyệt và Á thị huyệt.

a. Kinh huyệt:

Là huyệt có tên nhất định và có nơi nhất định, theo đúng thủ, túc tam âm kịnh, thủ, túc tam dương kinh, nhâm và đốc mạch mà dàn ra, thành hệ thống 14 kinh, gọi là kinh huyệt. Các kinh huyệt này đã trải qua sự chứng minh chữa bệnh ở bản kinh, vì vậy quy nạp ở trong bản kinh, chúng phát triển từ ít tới nhiều, từ tán loạn đến hệ thống mà thành.

 

b. Kỳ huyệt:

Là những phát hiện dần dần sau khi 14 đường kinh đã hình thành. Các y gia đời sau đã không nghĩ đến việc đem toàn bộ chúng nhập vào trong 14 kinh. (Các huyệt mới gần đây tìm ra gọi là tân huyệt). Do một số kỳ huyệt (đối với một số bệnh) có tác dụng chữa bệnh đặc thù, vì thế gọi là kỳ huyệt hoặc kinh ngoại kỳ huyệt (dịch là huyệt lạ ngoài kinh). Kỳ huyệt phân bố rất rộng, nhưng đều có quan hệ mật thiết với hệ thống kinh lạc, như huyệt Ấn đường trên đốc mạch, Trửu tiêm trên kinh tam tiêu.

c. Á thị huyệt:

Là nơi huyệt vị không cố định, lấy cục bộ chỗ bệnh hoặc nơi có phản ứng ấn đau làm nơi châm chữa, nó không có tên huyệt vị nhất định, gọi là Á thị huyệt, hoặc gọi là huyệt bất định, huyệt thiên ứng. á thị huyệt còn dùng cho chữa tật nạn ở bắp thịt phần nông (như đau bắp thịt), có thể bổ trợ khi chữa.

3. Cách lấy huyệt

Trước khi châm cứu phải tìm vị trí của du huyệt trên thân thể người ta, đó gọi là cách lấy huyệt. Khi gặp chứng bệnh thì việc lấy huyệt chính xác hay không có quan hệ mật thiết tới kết quả chữa bệnh. Nếu lấy huyệt chính xác, kết quả chữa bệnh tốt, lấy huyệt không chính xác, kết quả chữa bệnh kém. Vì thế, nhất định cần phải lấy huyệt cho đúng. Huyệt vị phân tán ở đầu mặt, thân mình, tứ chi, muốn lấy được huyệt chính xác không những yêu cầu người bệnh phải có thư thế và động tác nhất định như nằm nghiêng, nằm ngửa, nằm sấp, gấp khuỷu tay, dang tay, há mồm... Người thầy thuốc còn phải nắm vững được phương pháp lấy huyệt.

Nói chung, phương pháp lấy huyệt thường dùng có ba loại

A. Căn cứ vào sự bộc lộ tự nhiên ở cơ thể con người mà lấy huyệt. Cách lấy huyệt này chính xác, giản tiện, được vận dụng nhiều nhất trên lâm sàng; như lấy chính giữa hai lông mày là huyệt ấn đường, lấy hai ngón trỏ giao chéo nhau, đầu chót ngón trỏ trên đầu xương quay là huyệt Liệt khuyết, lấy điểm chính giữa đường nối hai đầu vú là huyệt Chiên trung Chiếu thẳng rốn sang phía sau cột sống để lấy huyệt Mệnh môn. Co khuỷu tay thành góc vuông lấy ở đầu nếp gấp khuỷu tay cạnh trong là huyệt Thiếu hải; hai tay buông xuôi xuống thì chỗ đầu chót ngón giữa nằm trên cạnh đùi là huyệt Phong thị. Khi gấp hẳn đầu vào cổ thì mỏm gai đốt cổ 7 nổi lên rất rõ, phía dưới đốt cổ 7, tức là bên trên đốt sống lưng I lấy huyệt Đại chuỳ, bên trên đốt lưng 2 là huyệt Đào đạo...

B. Theo cách đo bằng thốn * ngón tay (chỉ thốn pháp - đồng thân thốn). Là cách lấy bề rộng mấy chỗ ở ngón tay người bệnh làm tiêu chuẩn đo lường lấy huyệt. Nếu như thân chất người bệnh và thầy thuốc tương tự, có thể dùng tay thầy thuốc để đo.

Cách lấy đồng thân thốn ngón giữa: là bảo người bệnh dùng ngón giữa và ngón cái tay đặt nối nhau thành vòng tròn rồi đo lấy cự ly giữa hai đầu nếp gấp cạnh đốt giữa của ngón giữa làm một thốn. Cách tiện làm tiêu chuẩn cho việc lấy huyệt ở tứ chi và bề mặt ngang vùng lưng.

Cách lấy đồng thân thốn ngón cái: lấy độ rộng đốt 1 ngón cái (chỗ ngang khớp đốt) làm 1 thốn, hoặc cả hai ngón trỏ và giữa làm 2 thốn, hoặc cả bốn ngón (trừ ngón cái) làm 3 thốn. Bề ngang bốn ngón gọi là nhất phu pháp, (ở Việt Nam ngày xưa dùng bề ngang bốn ngón tay kẹp lại để làm đơn vị đo lường gọi là một vổ).

Những cách đo này rất đơn giản nhưng không chuẩn xác khi đo trên các đoạn xương vì vậy trên các đoạn xương phải có cách đo riêng gọi là cốt độ pháp (phép đo ở xương).

C. Cách chia thốn theo độ dài xương: cách chia thốn theo độ dài xương còn gọi là cốt độ pháp, cách này lấy khoảng cách giữa các bộ phận trong cơ thể quy định thành độ dài hoặc độ rộng nhất định rồi chia thành một số phần nào đó, mỗi phần như thế gọi là một thốn. Phương pháp này bất luận người bệnh là trai, gái, trẻ, già, hoặc cao, thấp, gầy,béo, nhất loạt chiểu theo tiêu chuẩn này mà chia ra lấy huyệt, như thế sẽ rất chính xác.

Bảng dưới đây ghi cách chia thốn cốt độ thường dùng

Bộ phận

Từ a đến b

Số thốn

Chủ thích

Ở đầu

từ mép tóc trước trán đến mép tóc sau gây

12

Nếu mép tóc trước không rõ ràng có thể

Lấy   từ giữa lông mày đến mép tóc sau gáy làm 15 thốn

từ mép tóc trước đến giữa lông mày (ấn đường)

3

từ mép tóc sau gáy đến đốt cổ 7

3

Nếu mép tóc sau gáy không rõ ràng thì lấy mép tóc trước đến đốt cổ 7 là 15 thốn

Bề rộng giữa 2 góc tóc trước trán trên lông mày

9

Từ giữa lông mày đến đốt cổ 7 là 18 thốn

Ở ngực bụng

khoảng cách giữa hai đầu vú

8

ở ngực bụng khi chia bề ngang, để lấy huyệt, căn cứ vào khoảng cách giữa hai đầu vú. Khi chia chiều dọc, nhất thiết lấy khoảng cách các xương sườn làm chuẩn.

từ lõm dưới xương ức đến rốn

8

 

từ giữa rốn đến bờ trên xương mu

5

 

từ nếp hố nách đến sườn 11

12

 

Ở lưng

từ cạnh trong xương bả vai đến giữa cột sống

3

chiều dọc của lưng theo khoảng cách các đốt sống làm căn cứ lấy huyệt

Chi trên

từ nếp gấp nách đến nếp gấp khuỷu tay

9

theo cạnh tron cách tay

từ nếp gấp khuỷu tay đến nếp gấp cổ tay

12

dùng cho cả hai cạnh trong và ngoài cẳng tay

Chi dưới

từ mấu chuyển lớn đến đầu gối xương đùi

19

dùng chung cho cả ba cạnh trước, ngoài, sau của chi dưới

từ đầu gối đến mắt cá ngoài

16

 

từ bờ trên xương mu đến bờ bên trên xương đùi chỗ đầu gối

18

dùng chung cho cạnh trong chi dưới


 

4. Huyệt đặc định (huyệt theo đặc tính nhất định)

Trong kinh huyệt (có một số huyệt vị có tác dụng trị liệu đặc thù gọi là huyệt đặc định. Do đó đặc tính nhất định, cho nên nó được quy nạp lại giới thiệu riêng, để trên lâm sàng phát huy tác dụng được tốt hơn.

a. Nguyên huyệt:

Là chỗ chủ yếu của kinh khí trong các kinh qua lại, những huyệt này hầu hết nằm ở xung quanh khớp cổ tay, khớp cổ chân. Do đó khí của tạng phủ thông qua kinh lạc thường biểu hiện ở những huyệt này, vì thế nó và tạng phủ có quan hệ mật thiết vô cùng, mỗi tạng phủ có bệnh biến thường phản ứng ở nguyên huyệt của kinh đó nói lên rằng nguyên huyệt có tác dụng to lớn trong việc chữa bệnh tạng phủ.

Huyệt vị của Nguyên huyệt là:

 

 

Tên huyệt

Tên kinh

Tên huyệt

Tên kinh

Thái uyên

Đại lăng

Thái khê

Uyển cốt

Hợp cốc

Khâu khư

Phế kinh

Tâm bào

Thận kinh

Tiểu trường kinh

Đại trường kinh

Đảm kinh

Thần môn

Thái bạch

Thái xung

Dương trì

Kinh cốt

Xung dương

Tâm kinh

Tỳ kinh

Can kinh

Tam tiêu kinh

Bàng quang kinh

Vị kinh


 

b. Lạc huyệt:

Lạc là ý nghĩa liên lạc, thông qua lạc huyệt có thể làm cho 12 kinh mạch có liên quan biểu lý hai kinh, vì vậy gọi là lạc huyệt. Vì lạc huyệt có tác dụng liên quan, cho nên 12 kinh mạch mới thành một vòng đai kín, và dùng vào trị bệnh ở hai kinh biểu lý liên quan có bệnh. 14 kinh lạc đều có lạc huyệt, riêng tỳ kinh có hai lạc huyệt, gộp lại có 15 lạc huyệt

 

Huyệt vị của lạc huyệt là:

 

Tên huyệt

Tên kinh

Tên huyệt

Tên kinh

Nội quan

Thông lý

Công tôn

Lãi câu

Ngoại quan

Phi dương

Phong long

Cưu vỹ

Tâm bào kinh

Tâm kinh

Tỳ kinh

Can kinh

Tam tiêu kinh

Bàng quang kinh

Vị kinh

Nhâm mạch

Liệt khuyết

Đại chung

Chi chính

Thiên lịch

Quang minh

Trường cường

Đại bao

Phế kinh

Thận kinh

Tiểu trường kinh

Đại trường kinh

Đảm kinh

Đốc mạch

Tỳ kinh đại lạc


 

c. Bối du huyệt:

Là chỗ khí tạng phủ luân chuyển ở vùng lưng, vì vậy gọi là du huyệt. Tuy nó phân bố cách đều trục giữa ở lưng là 1,5 thốn trên đường bàng quang kinh, nhưng vì nó tương thông với các tạng phủ nên chữa được bệnh tạng phủ. Khi tạng phủ có bệnh, thường thường du huyệt tương ứng trên lưng sẽ xuất hiện cảm giác ấn đau hoặc tê tức, vì vậy, chữa bệnh của bản tạng tại du ở lưng hiệu quả rất rõ rệt. Như bệnh dạ dày lấy huyệt Vị du bệnh thận lấy huyệt Thận du. Bối du huyệt ngoài việc chữa bệnh tạng phủ ra, lại có tác dụng chữa các khí quan liên quan, như can khai khiếu ở mắt, châm Can du có thể chữa được bệnh ở mắt.

Huyệt vụ của huyệt bối du là

 

Tên huyệt

Tên tạng phủ

Tên huyệt

Tên tạng phủ

Tâm du

Tỳ du

Thận du

Đại trường du

Tam tiêu du

Bàng quang du

Tâm

Tỳ

Thận

Đại trường

Tam tiêu

Bàng quang

Can du

Phế du

Quyết âm du

Tiểu trường du

Vị du

Đảm du

Can

Phế

Tâm bào

Tiểu trường

Vị

Đảm


 

d. Mộ huyệt:

Mộ có ý nghĩa là kết tụ lại, nơi khí của tạng phủ kết tụ ở ngực, bụng, gọi là mộ huyệt, ý nghĩa lâm sàng của nó tương tự như bối du huyệt, đối với các tạng phủ tương ứng với nó, nó có tác dụng đặc thù. Như bệnh dạ dày, lấy huyệt Trung quản, bệnh bàng quang lấy huyệt Trung cực.
Huyệt vị của mô huyệt là:

Tên huyệt

Tên tạng phủ

Tên huyệt

Tên tạng phủ

Cự khuyết

Trung quản

Quan nguyên

Trung phủ

Nhật nguyệt

Kinh môn

Tâm

Vị

Tiểu trường

Phế

Đảm thận

Chiên trung

Thạch môn

Trung cực

Kỳ môn

Chướng môn

Thiên du

Tâm bào

Tam tiêu

Bàng quang

Can

Tỳ

Đại trường



đ. Khích huyệt:

khích có ý nghĩa là lỗ trống không (theo Tứ giác hiệu mã tân từ điển thì khích là oán trách). Khích huyệt là nơi kinh khí tụ ở sâu, do đó gọi là khích huyệt. Khích huyệt phân phối ở tứ chi, phần lớn là ở phía dưới khuỷu và đầu gối. Mỗi kinh trong 12 kinh đều có một khích huyệt. Nó có thể chữa bệnh ở nơi đường kinh tuần hành và cả các loại bệnh ở tạng gốc sở thuộc, nhưng trên lâm sàng thường để chữa bệnh cấp tính, chứng đau, chứng viêm. Như đau ngực, tim, lấy huyệt Khích môn, đau dạ dày lấy huyệt Lương khâu.

Huyệt vị của khích huyệt:

Tên huyệt

Tên kinh

Tên huyệt

Tên kinh

Khổng tối

Âm khích

Ngoại khâu

ôn lưu

Dưỡng lão

Trung đô

Phế kinh

Tâm kinh

Đảm kinh

Đại trường kinh

Tiểu trường kinh

Can kinh

Khichs môn

Lương khâu

Kim môn

Hội tông

Địa cơ

Thuỷ tuyền

Tâm bào kinh

Vị kinh

Bàng quang kinh

Tam tiêu kinh

Tỳ kinh

Thận kinh


 

e. Bát hội huyệt:

Là nơi hội họp của tám thứ: tạng, phủ, khí, huyết, gân, mạch, xương, tuỷ. Nạn thứ 45 trong Nạn Kinh nói: Bệnh nhiệt ở trong, lấy khí huyệt hội của cái đó (Nhiệt bệnh tại nội giả, thủ kỳ hội chi khí huyệt dã), ứng dụng lâm sàng, không giới hạn ở bệnh nhiệt, mà nặng về phía bệnh nội chứng. Thuộc về bệnh chứng của một số mặt, có thể sử dụng hội huyệt hữu quan.

Bảng 8 hội huyệt

Tạng hội = Chướng môn

Huyết hội = cách du

Cốt hội = Đại trữ

Phú hội = Trung quản

Căn hội = Dương lăng tuyền

Tuỷ hội = Tuyệt cốt

Khí hội = Chiên trung

Mạch hội = Thái uyên


g. Ngũ Du huyệt:

12 kinh mạch ở tứ chi từ khuỷu tay và đầu gối trở xuống đều có 5 loại huyệt đặc định là Tỉnh, Huỳnh, Du, Kinh, Hợp, gọi là ngũ du huyệt. Từ đầu chót của tứ chi hướng về khuỷu và đầu gối, mạch khí dàn ra từ nhỏ đến lớn, từ nông đến sâu, từ xa đến gần, do đó nói: chỗ xuất là Tỉnh, chỗ lưu là Huỳnh, chỗ trú là Du, chỗ hành là Kinh, chỗ nhập là Hợp' (theo thiên Cứu châm nhập nhị nguyên sách Kinh Khu), đó là lấy đặc điểm hình dung theo tên gọi của dòng nước chảy. Tỉnh là nguồn từ dưới đất ra, hình dung về mạch khí nông, nhỏ, huyệt đó thường ở cạnh móng của ngón tay chân. Huỳnh là nước thành dòng nhỏ, mạch khí lớn, huyệt đó ở chỗ vùng ngón, bàn của tay chân. Du là vận chuyển, mạch khí đã rất thịnh, huyệt đó thường ở chỗ khớp cổ tay, cổ chân và phụ cận, Kinh là dòng ngước lớn, mạch khí chảy và trú ở đó, huyệt thường ở vùng xung quanh khớp cổ tay, cổ chân và cẳng tay, cẳng chân. Hợp là xoáy hợp lại, mạch khí sâu lớn,huyệt thường ở xung quanh khớp khuỷu tay, đầu gối.

Ứng dụng trên lâm sàng của ngũ du huyệt, sách Linh Khu nói rằng: Bệnh tại tạng lấy Tỉnh; bệnh biến ở mầu sắc lấy ở Huỳnh; bệnh có lúc tăng, lúc giảm, lấy ở Du, bệnh biến ở tiếng (âm) lấy ở Kinh; mãn kinh mà có máu cũng như bệnh ở dạ dày và ăn uống không điều độ mà mắc bệnh, lấy ở Hợp. Nạn thứ 68 của Nạn kinh lại đã nói thêm cho rõ hơn là: Tỉnh huyệt chữa đầy tức dưới tâm; Huỳnh huyệt chữa mình nóng sốt, Du huyệt chữa mình nặng khớp đau, Kinh huyệt chữa ho hắng, nóng rét; Hợp huyệt chữa nghịch khí mà tiết. Đó là cách nói về ngũ du huyệt và các đặc điểm chủ trụ của nó, chúng ta ghi nhận để tham khảo ứng dụng trên lâm sàng.

Bảng ngũ du huyệt

Ngũ tạng

Ngũ du

Phế

Tâm bào

Tâm

Tỳ

Cam

Thận

Tinh

Huỳnh

Du

Kinh

Hợp

Thiếu thương

Trung xung

Thiếu xung

Ân bạch

Đại đôn

Dũng tuyền

Ngư tế

Lao cung

Thiếu phủ

Đại đô

Hành gian

Nhiên cốc

Thái uyên

Đại lăng

Thần môn

Thái bạch

Thái xung

Thái khê

Kinh cử

Gian sử

Linh đao

Thương khâu

Trung phong

Phục lưu

Xích trạch

Khúc trạch

Thiếu hải

Âm lăng tuyền

Khúc tuyền

Âm cốc


 

Lục phủ

Tinh

Huỳnh

Du

Kinh

Hợp

Đại trường

Tam tiêu

Tiểu trường

Vị

Đảm

Bàng quang

Thương dương

Quan xung

Thiếu trạch

Lê đoài

Khiếu âm

Chí âm

Nhị gian

Dịch môn

Tiền cốc

Nội đinh

Hiệp khê

Thông cốc

Tam gian

Trung chủ

Hậu khê

Hăm cốc

Lâm khấp

Thúc cốt

Dương khê

Chi câu

Dương cốc

Giải khê

Dương phù

Côn luân

Khúc trì

Thiên tinh

Tiểu hải

Túc tam lý

Dương lăng tuyền

Uỷ trung


 

Hợp huyệt trong ngũ du huyệt đối với bệnh tạng phủ có tác dụng rất trọng yếu. Thiên Tà khí tạng phủ bệnh hình, sách Linh Khu nói: Huỳnh, Du chữa bệnh ở ngoài kinh lạc, Hợp chữa bệnh ở trong tạng phủ. Trị bệnh của lục phủ bằng Hợp huyệt, lại lấy Hợp huyệt của túc tam dương kinh là chính. Vị, Bàng quang, Đảm ra ở túc tam dương, mà đại trường, tiểu trường, tam tiêu tuy nhiên hợp trên ở thủ kinh, đồng thời cũng xuất hiện ở túc tam dương. Như thiên Bản luận sách Linh Khu đã nói: Lục phủ đều ra ở túc tam dương, Hợp ở trên tay. Đó là do lục phủ ở trong vùng bụng, có quan hệ với túc kinh rất mật thiết, vì vậy ở trên túc tam dương kinh đều có các Hợp huyệt đó. Vị hợp ở  Túc tam lý. Đại trường hợp ở Thượng cự hư. Tiểu trường hợp ở Hạ cự hư, đều thuộc túc dương minh vị kinh.

Thiên Bản luân lại nói Đại trường, tiểu trường đều thuộc ở vị, đó là nói công năng sinh lý trên dưới tương thừa. Bàng quang Hợp ở Uỷ trung, Tam tiêu Hợp ở uỷ Dương, đều thuộc túc tái dương bàng quang kinh, là do thuỷ đạo ở tam tiêu xuất ra có quan hệ thuộc về bàng quang. Đảm hợp ở Dương lăng tuyền. Trên vừa kể là hạ Hợp huyệt của bệnh lục phủ, hoặc gọi là Phủ bệnh Hợp Luân.

 

Bảng lục phủ hạ Hợp huyệt

 

Vị trường = Túc tam lý

Đại trường = Thượng cự hư

Tiểu trường = Hạ cự hư

Bàng quang = uỷ trung

Tam tiêu = uỷ dương

Dương lăng tuyền

Trên túc dương minh

 

Trên túc thái dương

 

Trên túc thiếu dương

 



h. Bát mạch giao hội huyệt:

Là 8 huyệt vị ở tứ chi thông với tám mạch kỳ kinh. Kỳ kinh bát mạch tuy không tuần hành tất cả trên tứ chi, nhưng do chúng có quan hệ giao hội với 12 kinh mạch, cho nên huyệt vị ở vùng tứ chi đều có thông với kỳ kinh, trên mặt điều trị thích ứng, có quan hệ tới bệnh chứng của kỳ kinh. Bát mạch giao hội huyệt ở tứ chi trên và chi dưới, khi ứng dụng thường phải phối hợp

Bảng phối hợp bát mạch giao hội huyệt và tác dụng của nó như sau:

Bản kinh

Bát huyệt

Thông bát mạch

Chủ trị

Túc thái âm

Thủ quyết âm

Công tôn

Nội quan

Xung mạch

Âm duy

Tim, ngực, dạ dày

Thủ thái dương

Túc thái dương

Hậu khê

Thân mạch

Đốc mạch

Dương kiều mạch

Khoé mắt trong, gáy cổ, tai, vai và cánh tay trên, tiểu trường, bàng quang

Túc thiếu dương

Thủ thiếu dương

Túc lâm khấp

Ngoại quan

Đới mạch

Dương duy mạch

Khoé mắt ngoài, sau tai, má, cổ vai

Thủ thái âm

Túc thiếu âm

Liệt khuyết

Chiếu hải

Nhâm mạch

Âm kiều mạch

Hệ phế, hầu họng, ngực nách

 
Thuốc XOANG Dạng Xịt Mới


Sau nhiều năm nghiên cứu. TT nghiên cứu và phát triển YHCT đã thành công trong việc điều chế thuốc CHỮA XOANG bằng Nam dược dưới dạng lọ xịt rất tiện lợi và hiệu quả.



Chi tiết, xin liên hệ:
Ông Đinh Lai Thịnh
Giám đốc TT NC&PT YHCT
ĐT: 01229227695
hoặc 0913530220



Website liên kết




   Trang trước Lên trên   

Copyright © Dokinhlac.com.vn - Email:Laithinh1966@gmail.com
Đã có tổng số: (đang Online: 124) 2696722 lượt người truy cập vào Website này!