1. Thế nào là du huyệt
Du huyệt cũng gọi là khổng huyệt, huyệt đạo, huyệt vị, kinh
huyệt, khí huyệt. Chữ Du có nghĩa giống như luân, là chuyển luân (theo Tứ giác
hiệu mà tân từ điển thì chữ Du có nghĩa là: đáp ứng các yêu cầu. Có thể định
nghĩa này phù hợp với tính năng, tác dụng của huyệt vị hơn). Huyệt có nghĩa là
một khoảng trống. Du huyệt là điểm trên bề mặt cơ thể thông với kinh lạc. Nó
phân bố ở trên mặt đường kinh mạch và là nơi để châm cứu.
Tác dụng của du
huyệt: về mặt chuẩn đoán, có thể theo nơi phân bố của nó thăm dò điểm phản ứng
bề ngoài để tham khảo chuẩn đoán bệnh tật. Phép chữa bệnh bằng châm cứu trên lâm
sàng là thông qua tác dụng của du huyệt và kinh lạc mà điều tiết tạng phủ, vận
hành khí huyết để đạt mục đích chữa hoặc dự phòng bệnh tật.
2. Phân loại Du huyệt
Số du huyệt trên cơ
thể người có rất nhiều, nhưng đại thể chia ra làm ba loại là: Kinh huyệt, Kỳ
huyệt và Á thị huyệt.
a. Kinh huyệt:
Là huyệt có tên nhất
định và có nơi nhất định, theo đúng thủ, túc tam âm kịnh, thủ, túc tam dương
kinh, nhâm và đốc mạch mà dàn ra, thành hệ thống 14 kinh, gọi là kinh huyệt. Các
kinh huyệt này đã trải qua sự chứng minh chữa bệnh ở bản kinh, vì vậy quy nạp ở
trong bản kinh, chúng phát triển từ ít tới nhiều, từ tán loạn đến hệ thống mà
thành.
b. Kỳ huyệt:
Là những phát hiện
dần dần sau khi 14 đường kinh đã hình thành. Các y gia đời sau đã không nghĩ đến
việc đem toàn bộ chúng nhập vào trong 14 kinh. (Các huyệt mới gần đây tìm ra gọi
là tân huyệt). Do một số kỳ huyệt (đối với một số bệnh) có tác dụng chữa bệnh
đặc thù, vì thế gọi là kỳ huyệt hoặc kinh ngoại kỳ huyệt (dịch là huyệt lạ ngoài
kinh). Kỳ huyệt phân bố rất rộng, nhưng đều có quan hệ mật thiết với hệ thống
kinh lạc, như huyệt Ấn đường trên đốc mạch, Trửu tiêm trên kinh tam tiêu.
c. Á thị huyệt:
Là nơi huyệt vị
không cố định, lấy cục bộ chỗ bệnh hoặc nơi có phản ứng ấn đau làm nơi châm
chữa, nó không có tên huyệt vị nhất định, gọi là Á thị huyệt, hoặc gọi là huyệt
bất định, huyệt thiên ứng. á thị huyệt còn dùng cho chữa tật nạn ở bắp thịt phần
nông (như đau bắp thịt), có thể bổ trợ khi chữa.
3. Cách lấy huyệt
Trước khi châm cứu
phải tìm vị trí của du huyệt trên thân thể người ta, đó gọi là cách lấy huyệt.
Khi gặp chứng bệnh thì việc lấy huyệt chính xác hay không có quan hệ mật thiết
tới kết quả chữa bệnh. Nếu lấy huyệt chính xác, kết quả chữa bệnh tốt, lấy huyệt
không chính xác, kết quả chữa bệnh kém. Vì thế, nhất định cần phải lấy huyệt cho
đúng. Huyệt vị phân tán ở đầu mặt, thân mình, tứ chi, muốn lấy được huyệt chính
xác không những yêu cầu người bệnh phải có thư thế và động tác nhất định như nằm
nghiêng, nằm ngửa, nằm sấp, gấp khuỷu tay, dang tay, há mồm... Người thầy thuốc
còn phải nắm vững được phương pháp lấy huyệt.
Nói chung, phương
pháp lấy huyệt thường dùng có ba loại
A. Căn cứ vào sự bộc
lộ tự nhiên ở cơ thể con người mà lấy huyệt. Cách lấy huyệt này chính xác, giản
tiện, được vận dụng nhiều nhất trên lâm sàng; như lấy chính giữa hai lông mày là
huyệt ấn đường, lấy hai ngón trỏ giao chéo nhau, đầu chót ngón trỏ trên đầu
xương quay là huyệt Liệt khuyết, lấy điểm chính giữa đường nối hai đầu vú là
huyệt Chiên trung Chiếu thẳng rốn sang phía sau cột sống để lấy huyệt Mệnh môn.
Co khuỷu tay thành góc vuông lấy ở đầu nếp gấp
khuỷu tay cạnh trong là huyệt Thiếu hải; hai tay buông xuôi xuống thì chỗ đầu
chót ngón giữa nằm trên cạnh đùi là huyệt Phong thị. Khi gấp hẳn đầu vào cổ thì
mỏm gai đốt cổ 7 nổi lên rất rõ, phía dưới đốt cổ 7, tức là bên trên đốt sống
lưng I lấy huyệt Đại chuỳ, bên trên đốt lưng 2 là huyệt Đào đạo...
B. Theo cách đo bằng thốn * ngón tay (chỉ thốn pháp - đồng
thân thốn). Là cách lấy bề rộng mấy chỗ ở ngón tay người bệnh làm tiêu chuẩn đo
lường lấy huyệt. Nếu như thân chất người bệnh và thầy thuốc tương tự, có thể
dùng tay thầy thuốc để đo.
Cách lấy đồng thân thốn ngón giữa: là bảo người bệnh dùng
ngón giữa và ngón cái tay đặt nối nhau thành vòng tròn rồi đo lấy cự ly giữa hai
đầu nếp gấp cạnh đốt giữa của ngón giữa làm một thốn. Cách tiện làm tiêu chuẩn
cho việc lấy huyệt ở tứ chi và bề mặt ngang vùng lưng.
Cách lấy đồng thân thốn ngón cái: lấy độ rộng đốt 1 ngón
cái (chỗ ngang khớp đốt) làm 1 thốn, hoặc cả hai ngón trỏ và giữa làm 2 thốn,
hoặc cả bốn ngón (trừ ngón cái) làm 3 thốn. Bề ngang bốn ngón gọi là nhất phu
pháp, (ở Việt Nam ngày xưa dùng bề ngang bốn ngón tay kẹp lại để làm đơn vị đo
lường gọi là một vổ).
Những cách đo này rất đơn giản nhưng không chuẩn xác khi đo
trên các đoạn xương vì vậy trên các đoạn xương phải có cách đo riêng gọi là cốt
độ pháp (phép đo ở xương).
C. Cách chia thốn theo độ dài xương: cách chia thốn theo độ
dài xương còn gọi là cốt độ pháp, cách này lấy khoảng cách giữa các bộ phận
trong cơ thể quy định thành độ dài hoặc độ rộng nhất định rồi chia thành một số
phần nào đó, mỗi phần như thế gọi là một thốn. Phương pháp này bất luận người
bệnh là trai, gái, trẻ, già, hoặc cao, thấp, gầy,béo, nhất loạt chiểu theo tiêu
chuẩn này mà chia ra lấy huyệt, như thế sẽ rất chính xác.
Bảng dưới đây ghi cách chia thốn cốt độ thường dùng
Bộ phận |
Từ a đến
b |
Số thốn |
Chủ thích |
Ở đầu |
từ mép tóc
trước trán đến mép tóc sau gây |
12 |
Nếu mép tóc
trước không rõ ràng có thể
Lấy từ
giữa lông mày đến mép tóc sau gáy làm 15 thốn |
từ mép tóc
trước đến giữa lông mày (ấn đường) |
3 |
từ mép tóc
sau gáy đến đốt cổ 7 |
3 |
Nếu mép tóc
sau gáy không rõ ràng thì lấy mép tóc trước đến đốt cổ 7 là 15 thốn |
Bề rộng giữa
2 góc tóc trước trán trên lông mày |
9 |
Từ giữa lông
mày đến đốt cổ 7 là 18 thốn |
Ở ngực bụng |
khoảng cách
giữa hai đầu vú |
8 |
ở ngực bụng
khi chia bề ngang, để lấy huyệt, căn cứ vào khoảng cách giữa hai đầu vú.
Khi chia chiều dọc, nhất thiết lấy khoảng cách các xương sườn làm chuẩn. |
từ lõm dưới
xương ức đến rốn |
8 |
|
từ giữa rốn
đến bờ trên xương mu |
5 |
|
từ nếp hố
nách đến sườn 11 |
12 |
|
Ở lưng |
từ cạnh
trong xương bả vai đến giữa cột sống |
3 |
chiều dọc
của lưng theo khoảng cách các đốt sống làm căn cứ lấy huyệt |
Chi trên |
từ nếp gấp
nách đến nếp gấp khuỷu tay |
9 |
theo cạnh
tron cách tay |
từ nếp gấp
khuỷu tay đến nếp gấp cổ tay |
12 |
dùng cho cả
hai cạnh trong và ngoài cẳng tay |
Chi dưới |
từ mấu
chuyển lớn đến đầu gối xương đùi |
19 |
dùng chung
cho cả ba cạnh trước, ngoài, sau của chi dưới |
từ đầu gối
đến mắt cá ngoài |
16 |
|
từ bờ trên
xương mu đến bờ bên trên xương đùi chỗ đầu gối |
18 |
dùng chung
cho cạnh trong chi dưới |
4. Huyệt đặc định (huyệt theo đặc tính nhất định)
Trong kinh huyệt (có
một số huyệt vị có tác dụng trị liệu đặc thù gọi là huyệt đặc định. Do đó đặc
tính nhất định, cho nên nó được quy nạp lại giới thiệu riêng, để trên lâm sàng
phát huy tác dụng được tốt hơn.
a. Nguyên huyệt:
Là chỗ chủ yếu của
kinh khí trong các kinh qua lại, những huyệt này hầu hết nằm ở xung quanh khớp
cổ tay, khớp cổ chân. Do đó khí của tạng phủ thông qua kinh lạc thường biểu hiện
ở những huyệt này, vì thế nó và tạng phủ có quan hệ mật thiết vô cùng, mỗi tạng
phủ có bệnh biến thường phản ứng ở nguyên huyệt của kinh đó nói lên rằng nguyên
huyệt có tác dụng to lớn trong việc chữa bệnh tạng phủ.
Huyệt vị của Nguyên huyệt là:
Tên huyệt |
Tên kinh |
Tên huyệt |
Tên kinh |
Thái uyên
Đại lăng
Thái khê
Uyển cốt
Hợp cốc
Khâu khư |
Phế kinh
Tâm bào
Thận kinh
Tiểu trường
kinh
Đại trường
kinh
Đảm kinh |
Thần môn
Thái bạch
Thái xung
Dương trì
Kinh cốt
Xung dương |
Tâm kinh
Tỳ kinh
Can kinh
Tam tiêu
kinh
Bàng quang
kinh
Vị kinh |
b. Lạc huyệt:
Lạc là ý nghĩa liên lạc, thông qua lạc huyệt có thể làm
cho 12 kinh mạch có liên quan biểu lý hai kinh, vì vậy gọi là lạc huyệt. Vì lạc
huyệt có tác dụng liên quan, cho nên 12 kinh mạch mới thành một vòng đai kín, và
dùng vào trị bệnh ở hai kinh biểu lý liên quan có bệnh. 14 kinh lạc đều có lạc
huyệt, riêng tỳ kinh có hai lạc huyệt, gộp lại có 15 lạc huyệt
Huyệt vị của lạc huyệt là:
Tên huyệt |
Tên kinh |
Tên huyệt |
Tên kinh |
Nội quan
Thông lý
Công tôn
Lãi câu
Ngoại quan
Phi dương
Phong long
Cưu vỹ |
Tâm bào kinh
Tâm kinh
Tỳ kinh
Can kinh
Tam tiêu
kinh
Bàng quang
kinh
Vị kinh
Nhâm mạch |
Liệt khuyết
Đại chung
Chi chính
Thiên lịch
Quang minh
Trường cường
Đại bao |
Phế kinh
Thận kinh
Tiểu trường
kinh
Đại trường
kinh
Đảm kinh
Đốc mạch
Tỳ kinh đại
lạc |
c. Bối du huyệt:
Là chỗ khí tạng phủ
luân chuyển ở vùng lưng, vì vậy gọi là du huyệt. Tuy nó phân bố cách đều trục
giữa ở lưng là 1,5 thốn trên đường bàng quang kinh, nhưng vì nó tương thông với
các tạng phủ nên chữa được bệnh tạng phủ. Khi tạng phủ có bệnh, thường thường du
huyệt tương ứng trên lưng sẽ xuất hiện cảm giác ấn đau hoặc tê tức, vì vậy, chữa
bệnh của bản tạng tại du ở lưng hiệu quả rất rõ rệt. Như bệnh dạ dày lấy huyệt
Vị du bệnh thận lấy huyệt Thận du. Bối du huyệt ngoài việc chữa bệnh tạng phủ
ra, lại có tác dụng chữa các khí quan liên quan, như can khai khiếu ở mắt, châm
Can du có thể chữa được bệnh ở mắt.
Huyệt vụ của huyệt bối du là
Tên huyệt |
Tên tạng
phủ |
Tên huyệt |
Tên tạng
phủ |
Tâm du
Tỳ du
Thận du
Đại trường
du
Tam tiêu du
Bàng quang
du |
Tâm
Tỳ
Thận
Đại trường
Tam tiêu
Bàng quang |
Can du
Phế du
Quyết âm du
Tiểu trường
du
Vị du
Đảm du |
Can
Phế
Tâm bào
Tiểu trường
Vị
Đảm |
d. Mộ huyệt:
Mộ có ý nghĩa là
kết tụ lại, nơi khí của tạng phủ kết tụ ở ngực, bụng, gọi là mộ huyệt, ý nghĩa
lâm sàng của nó tương tự như bối du huyệt, đối với các tạng phủ tương ứng với
nó, nó có tác dụng đặc thù. Như bệnh dạ dày, lấy huyệt Trung quản, bệnh bàng
quang lấy huyệt Trung cực.
Huyệt vị của mô huyệt là:
Tên huyệt |
Tên tạng phủ |
Tên huyệt |
Tên tạng phủ |
Cự khuyết
Trung quản
Quan nguyên
Trung phủ
Nhật nguyệt
Kinh môn |
Tâm
Vị
Tiểu trường
Phế
Đảm thận |
Chiên trung
Thạch môn
Trung cực
Kỳ môn
Chướng môn
Thiên du |
Tâm bào
Tam tiêu
Bàng quang
Can
Tỳ
Đại trường |
đ. Khích huyệt:
khích có ý nghĩa
là lỗ trống không (theo Tứ giác hiệu mã tân từ điển thì khích là oán trách).
Khích huyệt là nơi kinh khí tụ ở sâu, do đó gọi là khích huyệt. Khích huyệt phân
phối ở tứ chi, phần lớn là ở phía dưới khuỷu và đầu gối. Mỗi kinh trong 12 kinh
đều có một khích huyệt. Nó có thể chữa bệnh ở nơi đường kinh tuần hành và cả các
loại bệnh ở tạng gốc sở thuộc, nhưng trên lâm sàng thường để chữa bệnh cấp tính,
chứng đau, chứng viêm. Như đau ngực, tim, lấy huyệt Khích môn, đau dạ dày lấy
huyệt Lương khâu.
Huyệt vị của khích
huyệt:
Tên huyệt |
Tên kinh |
Tên huyệt |
Tên kinh |
Khổng tối
Âm khích
Ngoại khâu
ôn lưu
Dưỡng lão
Trung đô |
Phế kinh
Tâm kinh
Đảm kinh
Đại trường
kinh
Tiểu trường
kinh
Can kinh |
Khichs môn
Lương khâu
Kim môn
Hội tông
Địa cơ
Thuỷ tuyền |
Tâm bào kinh
Vị kinh
Bàng quang
kinh
Tam tiêu
kinh
Tỳ kinh
Thận kinh |
e. Bát hội huyệt:
Là nơi hội họp của tám thứ: tạng, phủ, khí, huyết, gân,
mạch, xương, tuỷ. Nạn thứ 45 trong Nạn Kinh nói: Bệnh nhiệt ở trong, lấy khí
huyệt hội của cái đó (Nhiệt bệnh tại nội giả, thủ kỳ hội chi khí huyệt dã), ứng
dụng lâm sàng, không giới hạn ở bệnh nhiệt, mà nặng về phía bệnh nội chứng.
Thuộc về bệnh chứng của một số mặt, có thể sử dụng hội huyệt hữu quan.
Bảng 8 hội huyệt
Tạng hội = Chướng môn
Huyết hội = cách du
Cốt hội = Đại trữ |
Phú hội = Trung quản
Căn hội = Dương lăng
tuyền
Tuỷ hội = Tuyệt cốt |
Khí hội = Chiên trung
Mạch hội = Thái uyên |
g. Ngũ Du huyệt:
12 kinh mạch ở tứ
chi từ khuỷu tay và đầu gối trở xuống đều có 5 loại huyệt đặc định là Tỉnh,
Huỳnh, Du, Kinh, Hợp, gọi là ngũ du huyệt. Từ đầu chót của tứ chi hướng về khuỷu
và đầu gối, mạch khí dàn ra từ nhỏ đến lớn, từ nông đến sâu, từ xa đến gần, do
đó nói: chỗ xuất là Tỉnh, chỗ lưu là Huỳnh, chỗ trú là Du, chỗ hành là Kinh,
chỗ nhập là Hợp' (theo thiên Cứu châm nhập nhị nguyên sách Kinh Khu), đó là
lấy đặc điểm hình dung theo tên gọi của dòng nước chảy. Tỉnh là nguồn từ dưới
đất ra, hình dung về mạch khí nông, nhỏ, huyệt đó thường ở cạnh móng của ngón
tay chân. Huỳnh là nước thành dòng nhỏ, mạch khí lớn, huyệt đó ở chỗ vùng
ngón, bàn của tay chân. Du là vận chuyển, mạch khí đã rất thịnh, huyệt đó
thường ở chỗ khớp cổ tay, cổ chân và phụ cận, Kinh là dòng ngước lớn, mạch khí
chảy và trú ở đó, huyệt thường ở vùng xung quanh khớp cổ tay, cổ chân và cẳng
tay, cẳng chân. Hợp là xoáy hợp lại, mạch khí sâu lớn,huyệt thường ở xung
quanh khớp khuỷu tay, đầu gối.
Ứng dụng trên lâm sàng của ngũ du huyệt, sách Linh Khu nói
rằng: Bệnh tại tạng lấy Tỉnh; bệnh biến ở mầu sắc lấy ở Huỳnh; bệnh có lúc
tăng, lúc giảm, lấy ở Du, bệnh biến ở tiếng (âm) lấy ở Kinh; mãn kinh mà có máu
cũng như bệnh ở dạ dày và ăn uống không điều độ mà mắc bệnh, lấy ở Hợp. Nạn thứ
68 của Nạn kinh lại đã nói thêm cho rõ hơn là: Tỉnh huyệt chữa đầy tức dưới
tâm; Huỳnh huyệt chữa mình nóng sốt, Du huyệt chữa mình nặng khớp đau, Kinh
huyệt chữa ho hắng, nóng rét; Hợp huyệt chữa nghịch khí mà tiết. Đó là cách nói
về ngũ du huyệt và các đặc điểm chủ trụ của nó, chúng ta ghi nhận để tham khảo
ứng dụng trên lâm sàng.
Bảng ngũ du huyệt
Ngũ tạng |
Ngũ du |
Phế
Tâm bào
Tâm
Tỳ
Cam
Thận |
Tinh |
Huỳnh |
Du |
Kinh |
Hợp |
Thiếu thương
Trung xung
Thiếu xung
Ân bạch
Đại đôn
Dũng tuyền |
Ngư tế
Lao cung
Thiếu phủ
Đại đô
Hành gian
Nhiên cốc |
Thái uyên
Đại lăng
Thần môn
Thái bạch
Thái xung
Thái khê |
Kinh cử
Gian sử
Linh đao
Thương khâu
Trung phong
Phục lưu |
Xích trạch
Khúc trạch
Thiếu hải
Âm lăng tuyền
Khúc tuyền
Âm cốc |
Lục phủ |
Tinh |
Huỳnh |
Du |
Kinh |
Hợp |
Đại trường
Tam tiêu
Tiểu trường
Vị
Đảm
Bàng quang |
Thương dương
Quan xung
Thiếu trạch
Lê đoài
Khiếu âm
Chí âm |
Nhị gian
Dịch môn
Tiền cốc
Nội đinh
Hiệp khê
Thông cốc |
Tam gian
Trung chủ
Hậu khê
Hăm cốc
Lâm khấp
Thúc cốt |
Dương khê
Chi câu
Dương cốc
Giải khê
Dương phù
Côn luân |
Khúc trì
Thiên tinh
Tiểu hải
Túc tam lý
Dương lăng tuyền
Uỷ trung |
Hợp huyệt trong ngũ
du huyệt đối với bệnh tạng phủ có tác dụng rất trọng yếu. Thiên Tà khí tạng phủ
bệnh hình, sách Linh Khu nói: Huỳnh, Du chữa bệnh ở ngoài kinh lạc, Hợp chữa
bệnh ở trong tạng phủ. Trị bệnh của lục phủ bằng Hợp huyệt, lại lấy Hợp huyệt
của túc tam dương kinh là chính. Vị, Bàng quang, Đảm ra ở túc tam dương, mà đại
trường, tiểu trường, tam tiêu tuy nhiên hợp trên ở thủ kinh, đồng thời cũng xuất
hiện ở túc tam dương. Như thiên Bản luận sách Linh Khu đã nói: Lục phủ đều ra
ở túc tam dương, Hợp ở trên tay. Đó là do lục phủ ở trong vùng bụng, có quan hệ
với túc kinh rất mật thiết, vì vậy ở trên túc tam dương kinh đều có các Hợp
huyệt đó. Vị hợp ở Túc tam lý. Đại trường hợp ở Thượng cự hư. Tiểu trường hợp ở
Hạ cự hư, đều thuộc túc dương minh vị kinh.
Thiên Bản luân lại
nói Đại trường, tiểu trường đều thuộc ở vị, đó là nói công năng sinh lý trên
dưới tương thừa. Bàng quang Hợp ở Uỷ trung, Tam tiêu Hợp ở uỷ Dương, đều thuộc
túc tái dương bàng quang kinh, là do thuỷ đạo ở tam tiêu xuất ra có quan hệ
thuộc về bàng quang. Đảm hợp ở Dương lăng tuyền. Trên vừa kể là hạ Hợp huyệt của
bệnh lục phủ, hoặc gọi là Phủ bệnh Hợp Luân.
Bảng lục phủ hạ Hợp
huyệt
Vị trường = Túc tam
lý
Đại trường = Thượng
cự hư
Tiểu trường = Hạ cự
hư
Bàng quang = uỷ
trung
Tam tiêu = uỷ dương
Dương lăng tuyền |
Trên túc dương minh
Trên túc thái dương
Trên
túc thiếu dương
|
h. Bát mạch giao hội huyệt:
Là 8 huyệt vị ở tứ
chi thông với tám mạch kỳ kinh. Kỳ kinh bát mạch tuy không tuần hành tất cả trên
tứ chi, nhưng do chúng có quan hệ giao hội với 12 kinh mạch, cho nên huyệt vị ở
vùng tứ chi đều có thông với kỳ kinh, trên mặt điều trị thích ứng, có quan hệ
tới bệnh chứng của kỳ kinh. Bát mạch giao hội huyệt ở tứ chi trên và chi dưới,
khi ứng dụng thường phải phối hợp
Bảng phối hợp bát
mạch giao hội huyệt và tác dụng của nó như sau:
Bản kinh |
Bát huyệt |
Thông bát
mạch |
Chủ trị |
Túc thái âm
Thủ quyết âm |
Công tôn
Nội quan |
Xung mạch
Âm duy |
Tim, ngực,
dạ dày |
Thủ thái
dương
Túc thái
dương |
Hậu khê
Thân mạch |
Đốc mạch
Dương kiều
mạch |
Khoé mắt
trong, gáy cổ, tai, vai và cánh tay trên, tiểu trường, bàng quang |
Túc thiếu
dương
Thủ thiếu
dương |
Túc lâm khấp
Ngoại quan |
Đới mạch
Dương duy
mạch |
Khoé mắt
ngoài, sau tai, má, cổ vai |
Thủ thái âm
Túc thiếu âm |
Liệt khuyết
Chiếu hải |
Nhâm mạch
Âm kiều mạch |
Hệ phế, hầu
họng, ngực nách |
|