Đục nhân mắt gọi là Bạch nội chướng, thường thấy ở người già, gọi là đục nhân
mắt tuổi già. Bệnh này phát triển chậm chạp, hai mắt có thể phát sinh trước sau
theo mức độ vẩn đục nhân mắt dần dần tăng thêm, cuối cùng có thể dẫn đến làm
giảm sức nhìn nghiêm trọng. Đục nhân mắt cha thành màng Đông y gọi là "Màng
băng" (Băng ế) hoặc "Màng hoa táo" (Táo hoa ế), "Màng chìm" (Trầm ế); đã thành
"Màng tròn che ở trong", dân gian gọi là "Nhài quạt", đồng tử quay lưng lại
(Đồng thần phản bối), hoặc gọi là "Màng ở trong như bạc" (Như ngân nội ế) là
thời gian đục nhân mắt đã thành thục.
Bệnh này thường do tuổi già người yếu, can thận lưỡng hư, hoặc tỳ vị hư nhược,
không thể vận hoá tinh vi, tính khí bất túc, không thể lên làm cho mắt tơi tốt,
việc thay cũ đổi mới ở thấu kính bị che vướng gây ra.
1. Điểm cần kiểm tra để chẩn đoán
1.1. Tự thấy nhìn vật ngày càng mờ, trước mắt có bóng đen cố định.
1.2. Thời kỳ đầu nhân mắt hiện rõ vẩn đục sắc trắng lan toả, thời gian sau thì
đồng tử có một mảng sắc trắng kéo dài hàng tháng hoặc hàng năm.
2. Biện chúng thí trị
Đục nhân mắt ở người già dựa theo quá trình phát triển của nó có thể phân làm 4
thời kỳ: Sơ phát, bành trướng, thành thục và quá thành thục.
Đục nhân mắt thời kỳ thành thục là thời kỳ rất có lợi đế chữa bằng phẫu thuật.
Trước đây, đục nhân mắt chưa thành thục thường phải chờ đợi đến khi thành thục
mới đi phẫu thuật; ngày nay uống thuốc trong và châm cứu có thể cải thiện sức
nhìn.
2.1. Thuốc uống trong
Phù hợp với thời kỳ chưa thành thục (sơ phát và bành trướng)
Phép chữa: Tư dưỡng can thận, ích âm minh mục.
Phương thuốc: Kỷ cúc địa hoàng hoàn và Từ chu hoàn đổi vòng cách ngày, thay chéo
nhau uống, mỗi lần uống 2-4 đồng cân.
Hoặc dùng:
Ngũ tử bổ thận hoàn, mỗi lần uống 1,5 đồng cân, ngày hai lần uống.
Từ chu hoàn, mỗi lần uống 1-2 đồng cân, uống lúc sáng sớm bụng đói uống một lần
chiêu bằng nước cơm.
Nếu người bệnh lúc thường vốn tỳ vị hư nhược, biểu hiện là chi thể không có sức,
ăn vào lâu đói, tinh thần mệt mỏi; sắc mặt vàng úa, lưỡi nhạt mạch yếu, không
chịu nổi chất béo bổ thì không nên uống các phương trên, mà nên đổi dùng bổ khí
phù tỳ, dưỡng âm minh mục, dùng phương Bổ trung ích khí thang và Quy tỳ hoàn
thay chéo uống đổi vòng cách ngày, mỗi lần uống 3-4 đồng cân.
2.2. Chữa bằng châm cứu
Thể châm:
Phương I: Chủ huyệt: Tình minh, Toán trúc, Đồng tử liêu, Ngư yêu, Thừa khấp.
Vị phối huyệt: Khúc trì, Hợp cốc, Phong trì, Can du, Thận du, Mỗi lần thay vòng
chọn lấy 1 đôi chủ huyệt, 1 đôi phối huyệt, mỗi ngày 1 lần, 10 ngày là một liệu
trình.
Phương 2: - Chủ huyệt: Kiện minh, Cầu hậu, Kiện minh 4.
Phối huyệt: Hợp cốc, ế minh, Thái dương, Thận du.
Mỗi lần thay vòng chọn lấy 1 đôi chủ huyệt, 1 đôi phối huyết, mối ngày 1 lần, 10
ngày là một liệu trình.
Phương 3: - Lấy các huyệt: Tý nhu, Tình minh, Can du.
Cách ngày châm 1 lần, từ 7 - 10 lần là 1 liệu trình.
Phương 4: Phép châm huyệt Hướng minh
Huyệt Hướng minh 1 - Nằm ngửa, vai dời cao, đầu hơi ngả sau, khởi điểm từ góc
hàm, hớng ngang bằng sang 2 bên cạnh vươn dài tới bờ trong cơ ức đòn chũm. Chỗ
tay sờ thấy cạnh trong hoặc cạnh ngoài động mạch cổ, sát trùng da, lấy ngón tay
cái hoặc ngón tay trỏ đem đẩy động mạch lớn ở cổ hướng ra cạnh ngoài (hoặc cố
định ở cạnh trong), ép nhẹ vào tổ chức mềm vùng cổ, kim từ đó tiến thẳng đứng
vào (mũi kim hơi hướng chéo cạnh lên đầu từ 1,5 - 2 thốn, sau khi đắc khí dùng
thủ pháp nâng ấn hoặc vê xoay nhẹ.
Huyệt Hướng minh 2 - Khởi điểm là từ mé trên sụn giáp, hướng ngang bằng sang hai
bên bờ trong cơ ức đòn chũm. Vị trí lấy huyệt và cách châm, độ sâu như trên.
Huyệt Hướng minh 3 - Lấy vòng sụn giáp làm tiêu chí hướng ngay bằng sang hai bên
bờ trong có ức đòn chũm. Vị trí lấy huyệt và cách châm như trên, sâu 1 - 1,5
thốn.
Huyệt Hướng minh 4 - Dưới dái tai 7-8 phân, về phía sau 7- 8 phân, bờ trước cơ
ức đòn chũm, tiến kim 1-1,5 thốn, phương hướng châm kim hướng về phía huyệt bên
đối.
Sau khi tiến kim đắc khí, có cảm giac đi theo trước sau tai, đi lên đến khu mắt
thấy buốt, căng, chìm, sáng, thư giãn thích thú nhẹ, 5 huyệt trên đều lấy huyệt
bên phía có bệnh, mỗi lần lấy 1-2 cái, mỗi ngày hoặc cách ngày châm 1 lần, 10-15
lần là một liệu trình.
3. Phương kinh nghiệm
Mỗi ngày lấy một buồng gan gà trống, bọc lá dâu (nam 7 lá, nữ 9 lá) lại bọc
ngoài bằng giấy, đắp đất nướng chín ăn cả gan và lá dâu, 10 ngày là một liệu
trình, ăn tiếp mấy liệu trình cho khỏi hẳn.
4. Ghi chú phương thuốc chế sẵn
- Kỷ cúc địa hoàng hoàn: (xem ở bài 12)
Thục Địa hoàng 8 đồng, cân Sơn thù nhục 4 đồng cân
Sơn dược 4 đồng cân, Phục linh 3 đồng cân
Đan bì 3 đồng cân, Trạch tả 3 đồng cân
Thêm: Câu kỷ tử, Cúc hoa, làm viên là thành
- Từ chu hoàn:
Lục khúc 4 lạng, Từ thạch 2 lạng, Chu sa 1 lạng
Nghiền riêng cực nhỏ mịn, lấy Lục khúc quấy hồ làm viên, mỗi lần uống 2 đồng
cân, nên uống sau bữa ăn.
- Ngũ tử bổ thận hoàn:
Câu kỷ tử 8 lạng, Thỏ ty tử 8 lạng
Phúc bồn tử 4 lạng, Xa tiền tử 2 lạng
Ngũ vị tử 1 lạng
Nghiền chung nhỏ mịn, luyện mật làm viên.
- Bổ trung ích khí thang:
Hoàng kỳ 4 đồng cân, Đảng sâm 3 đồng cân
Bạch truật 3 đồng cân, Chích Cam thảo 2 đồng cân
Đương quy 2 đồng cân, Trần bì 1,5 đồng cân
Sài hồ 1,5 đồng cân Thăng ma 1,5 đồng cân
- Quy tỳ hoàn (hoặc thang) (xem ở bài 12)
|