Răng đau do rất nhiều nguyên nhân, nhưng nói chung thường bởi sâu răng dẫn tới.
Khi gặp nóng, lạnh, chua, ngọt đều có thể kích thích đau thêm dữ dội. Đông y cho
rằng răng đau có phân ra hư và thực, thực thường bởi vị hoả dẫn đến, hư thường
do thận hư gây ra. Do vị hoả dẫn đến thường kèm có mồm hôi, đại tiện bí, do thận
hư gây ra thường kèm có phù vùng răng, tinh thần mệt mỏi.
Phép chữa: chữa bằng châm cứu.
Thể châm:
Huyệt thường dùng: Hợp cốc, Giáp xa, Hạ quan.
Huyệt dự bị: Nội đình, Thái khê.
Phương pháp: Lấy huyệt thường dùng làm chủ, kích thích mức vừa, cách mấy phút
lại vê kim, lưu kim 10 phút, mỗi ngày châm 1 lần.
Vị hoả răng đau, gia Nội đình; thận hư răng đau, gia Thái khê.
Nhĩ châm.
1. Huyệt thường dùng: Nha thống huyệt, Hợp cốc.
Huyệt dự bị: Hạ quan, Giáp xa.
Kích thích mức vừa (Thường dụng Tân y liệu pháp thủ sách).
2. Huyệt thường dùng: Hạ quan, Hợp cốc.
Huyệt dự bị: Phong trì, Đại trữ.
(Trung Quốc châm cứu học).
3. Thiên dung, Giáp xa, Hợp cốc, vê kim giữ liền (Tân châm cứu học).
4. Đại nghinh, Quyền liêu, Thính hội, Khúc trì chủ răng đau sợ lạnh; Ế phong trị
hàm răng đau; Thương dương trị răng đau sợ lạnh; Thượng quan trị phong đau răng
hàm răng không mở được (Tư sinh kinh).
5. Răng đau: Thừa tương, Giáp xa 3 mồi, Kiên ngung 7 mồi, Liệt khuyết 7 mồi;
Thái uyên, Ngư tế, Dương cốc (đau răng trên), Hợp cốc, Tam gian (đau răng dưới)
đều 7 mồi, Túc tam lý (răng trên) 7 mồi, Thái khê, Nội đình
(răng trên).
(Loại kinh đồ dực - châm cứu yếu lãm).
|