1. Nguyên nhân và biểu hiện lâm sàng
Miệng mắt méo lệch là chứng thần kinh mặt tê bại, cũng gọi là "Diện than", là
bệnh rất thường thấy trong bệnh biến thần kinh hộp sọ. Tuổi nào cũng có thể phát
bệnh, nhưng thấy nhiều là ở tuổi trẻ khoẻ. Bệnh này do 2 loại là thần kinh trung
khu và thần kinh ngoại biên gây nên. Mặt tê bại do thần kinh trung khu có thể do
tai biến mạch máu não và u não sinh ra. Ở bài này chỉ giới thiệu mặt tê bại do
thần kinh ngoại biên.
Nguyên nhân sinh ra bệnh này thường bởi viêm thần kinh mặt trong ống nhánh mỏm
chũm cấp tính không hoá mủ, và vùng mặt bị gió thổi hoặc gặp mát gây nên. Nói
chung cho rằng có thể là huyết quản cục bộ nuôi dưỡng thần kinh vì bị gió lạnh
mà co giật, dẫn đến thần thiếu máu, thuỷ thũng mà đưa đến bệnh; cũng có thể có
gắn với bệnh nhiễm trùng cục bộ. Ngoài đó ra viêm tai giữa mạn tính, viêm mỏm
chũm cũng có thể kế phát bệnh này.
Đông y cho rằng bệnh này là do ngoại cảm phong hàn xâm nhiễm kinh lạc vùng mặt
(chủ yếu là kinh Dương minh, Thiếu dương) đến nỗi lưu hành của kinh khí bất
thường, khí huyết bất hoà, kinh cân mất nhu dưỡng, chùng giãn không thu lại mà
phát bệnh.
Biểu hiện lâm sàng: Thường thường đột nhiên phát bệnh, phần nhiều ở vào buổi
sáng sớm khi tỉnh dậy thấy một bên mí mắt không thể nhắm và miệng lệch. Cũng có
ít người bệnh trước khi mắc bệnh cảm thấy có khó chịu sau tai bên có bệnh. Tê
bại thường là ở một bên, vùng dưới tai và mỏm chũm thường có cảm giác đau đớn,
vùng mặt bên bệnh mất bộc lộ tình cảm. Do tê liệt cơ nheo lông mày, cơ trán, cơ
vòng quanh mắt mà xuất hiện mắt không thể nhắm, chảy nước mắt, không thể nhăn
trán nheo mày; trương lực cơ bên bệnh giảm xuống thấp mà làm cho góc miệng bị
kéo về bên khoẻ, rãnh môi mũi bị biến hoặc chéo lệch, bởi vì cơ vòng miệng và cơ
trán tê bại làm cho nói chuyện bị dò gió, không thể thổi hơi, khó phồng má, dễ
dàng chảy dãi, khi đưa đồ ăn vào thức ăn thường tấp lại ở giữa má và răng, có
khi lại có xuất hiện vị giác giảm hoặc chứng trạng thính giác quá nhạy. Nếu bệnh
tình kéo dài có thể co giật cơ mặt bên bệnh mà góc miệng ngược lại hướng lệch về
bên bệnh, gọi là "hiện tợng đảo nhầm" (đảo thao hiện tượng), và có bắp thịt máy
động, vùng mặt kéo cứng như tấm gỗ không cảm thấy giãn trở lại.
Cơ mặt co giật là cơ ở nửa mặt có biểu hiện chứng eo rút không quy tắc, thường
phát làm từng cơn, phần nhiều thấy ở phái nữ trung tuổi trở lên. Chứng trạng đó
mới đầu vẩn có ở cơ vòng quanh mắt từng khoảng cách, sau đó dần dần phát triển
đến cơ bắp khác ở vùng mặt, nghiêm trọng thì cơ ở góc mép cũng sẽ cùng co động.
2. Phương pháp trị liệu
2.1. Biện chứng luận trị
Phép chữa: lấy sơ thông kinh khí vùng mặt làm chủ.
Phương thuốc: Khiêm chính tán.
Bạch phụ tử, Cương tàm, Toàn yết.
Các phần bằng nhau, bỏ chung nghiền nhỏ, hợp thành tễ tán. Chú ý: Trong phương
có Bạch phụ tử có tính độc, không được uống quá liều lượng.
Mỗi lần uống 1 đồng cân, ngoáy với rượu nóng uống, cũng có thể làm thang tễ.
Phương này dùng Bạch phụ tử tán phong ở đầu mặt; Cương tàm khử phong đàm, Toàn
yết dẹp phong trấn kinh, hai vị hợp cùng có công sưu phong thông lạc, cùng dùng
với rượu nóng ngoáy uống để dẫn ba thứ thuốc đi lên
đầu mặt.
Công dụng: Chữa liệt mặt miệng mắt méo lệch và gân thịt trên mặt
co động.
Ba thứ thuốc đó đến thẳng mạch lạc ở đầu mặt, khử phong hoá đàm cực là đắc lực,
không phải dùng thêm thứ thuốc nào khác.
Không dùng cho miệng mắt méo lệch do liệt thần kinh trung khu.
2.2. Chữa bằng châm cứu
a) Chữa miệng mắt méo lệch
Thể châm.
Huyệt thường dùng: Phong trì, Dương bạch, Địa thương, Tứ bạch, Hợp cốc, chích
máu Nội địa thương.
Huyệt dự bị: Nhân trung, Giáp thừa tương, Thái dương, Hạ quan, Túc tam lý, Nội
đình, Hoà liêu.
Phép dùng: Huyệt Tứ bạch nên châm đứng kim hoặc từ trên hướng xuống châm ngang
kim; Dương bạch nên thấu Ng yêu; Địa thương thấu Giáp xa, nếu rãnh nhân trung
lệch rất nhiều, gia Nhân trung, Hoà liêu; Thái dương thấu Giáp xa. Các huyệt
khác đều có thể chọn dùng phối hợp, phối hợp trên dưới càng làm cho kết quả tốt.
Châm kim nên nông, kích thích mức vừa phải, mỗi ngày hoặc cách ngày châm 1 lần.
Châm kim ngoài Hợp cốc ra đều lấy huyệt bên có bệnh.
Điện châm
Dùng huyệt: Ế phong, Thính cung, Địa thương thấu Giáp xa tới vùng bệnh, mỗi lần
lấy 1-2 huyệt, thông điện mấy giây mỗi ngày hoặc cách ngày châm một lần, 10 giây
là 1 liệu trình. Nếu thông điện xong chứng nhẹ thì có thể nhìn thấy cơ cười vùng
mặt co nhảy là khôi phục rất nhanh. Nếu thấy hàm răng cắn chắc là châm kim quá
sâu, châm trúng cơ nhai gây ra, phải lùi kim ra.
- Phương kinh nghiệm ở các sách.
1. Ế phong, Thiên dung, Thính hội, Cự liêu, Tứ bạch, Toán trúc, Ty trúc không,
Khúc mấn, Giáp xa, Đồng tử liêu, Địa thương, Hoà liêu (Tân châm
cứu học).
2. Miệng mắt méo lệch: Giáp xa, Thuỷ câu, Liệt khuyết, Thái uyên, Hợp cốc, Nhị
gian, Địa thương, Ty trúc không (Thần ứng kinh).
3. Miệng mắt méo lệch: Thính hội, Giáp xa, Địa thương.
Lệch hướng phải thì cứu bên trái, lệch hướng trái cứu phải. Mồi ngải to như hạt
mạch, mỗi chỗ cứu 2x7 mỗi. (Tư sinh kinh).
4. Miệng mắt méo lệch: Trước châm Địa thương, Giáp xa, Nhân trung, Hợp cốc. Nếu
sau khi khỏi, cách một tháng hoặc nửa tháng phát lại, có thể châm thính hội,
Thừa tương, Ế phong. (Châm cứu Đại thành).
5. Miệng méo: Ôn lưu, Thiên lịch, Nhị gian, Nội đình (phổ tễ phương) .
b) Chữa cơ mặt co giật
- Thể châm:
Huyệt thường dùng: Tứ bạch, mũi kim hớng về lỗ dưới mắt, tiến kim sâu chừng 5
phân thốn sau khi tìm thấy phản ứng thì lưu kim nửa giờ đồng hồ, mỗi ngày châm
1-2 lần. Hoặc châm Thái dương thấu Giáp xa, Địa thương thấu Ế phong, Hợp cốc, Tứ
bạch thấu Hạ quan.
Hai phương kể trên đây có thể thay thế nhau sừ dụng, dùng thủ pháp kích thích
mạnh.
|