Bệnh này là bệnh lây lan đường ruột thường thấy ở mùa hạ, thu. Lâm sàng thường
thấy có hai loại lỵ tế khuẩn (khuẩn lỵ) và lỵ amíp. Khuẩn lỵ là do nhiễm khuẩn
gậy (can khuẩn) của bệnh lỵ mà dẫn tới; lỵ amíp do ở nhiễm nguyên trùng amíp dẫn
tới. Đông y gọi chung là “lỵ tật” , nguyên nhân và bệnh lý đó là bên ngoài thì
bị dịch độc thấp nhiệt, ăn uống không sạch, tham ăn đồ tươi sống, béo ngậy mà
dẫn tới tỳ vị không điều, sự truyền dẫn của đại trường mất thường hình thành;
nếu người bệnh chính khí bất túc, thêm vào đó là cách chữa không đúng, bệnh tình
sẽ kéo dài không khỏi, có thể thành mạn tính "cửu lỵ" hoặc “hưu tức lỵ". Nếu bị
cảm thấp nhiệt dịch độc sâu nặng, có thể nhanh chóng chuyển vào doanh huyết mà
đưa đến hôn mê, kinh quyết, chứng nghiêm trọng do độc tà hãm ở trong, chính khí
không dẩy đi được có thể xuất hiện hình ảnh nguy là nội bế ngoại thoát.
ĐIỂM CẦN KIỂM TRA ĐỂ CHẨN ĐOÁN
1 . Trước khi thành bệnh đã trải qua ăn uống không sạch hoặc đã trải qua tiếp
xúc với người bệnh lỵ.
2. Chứng trạng chủ yếu là: Đột nhiên phát sốt hoặc không sốt, bụng đau ỉa
chảy, số lần đại tiện tăng nhiều, mỗi ngày nhiều lần đến ít nhiều chục lần,
lượng phân ít, có chứa chất nhầy hoặc mủ máu và có lý cấp hậu trọng (chỉ chung
vùng bụng dưới và hậu môn đau xệ xuống. có khi thấy cảm giác mót rặn, số lần đại
tiện nhiều mà phân ít, cảm giác co kéo không thông).
Bảng 2-1.
Chẩn đoán phân biệt
|
Bệnh khuẩn lỵ |
Bệnh lỵ amíp |
Tính lây
lan |
Nhiều tính
lây lan |
Thường là rải
rác |
Dấy bệnh |
Cấp |
Rất chậm |
Phát sốt |
Thường có
phát sốt |
Có sốt nhẹ hoặc không phát sốt |
Chứng trạng
lâm sàng và chứng huyết độc |
Nặng |
nhẹ
|
Vùng bụng ấn
đau |
phía trái
bụng dưới |
phía phải
bụng dưới |
Số lần đại
tiện và tính trạng |
Số lần nhiều,
lượng phân ít, chất nhầy và máu mủ dạng phân, không có mùi hôi đặc thù |
Số lần ít,
phân lượng nhiều thường có mùi hôi khó chịu, dạng tương đậu, sắc hồng
xám |
Kiểm tra phân |
Lam kính: có
lượng lớn tế bào mủ, hồng cầu, có thể tìm thấy tế bào cự phệ, nuôi cấy
phân có thể tìm thấy khuẩn gậy (can khuẩn) |
Lam kính: ít
bạch cầu, nhiều hồng cầu, có thể tìm thấy chất nuôi dưỡng và túi bọc
amíp |
Các tính chất
khác |
Trúng độc cấp
tính có thể phát sinh choáng ngất |
1. có thể kèm
phát sưng gan có mủ, xuất hiện phát sốt, chứng trạng gan sưng to và ấn
đau
2. Dễ dàng
hình thành bệnh lị mạn tính |
3. Kiểm tra điểm ấn đau vùng bụng và hoá nghiệm phân có thể nhìn riêng ra hai
loại lỵ.
4. ở mùa tiết của dịch, nếu thấy đột nhiên sốt cao, nôn mửa. ham nằm hoặc hôn
mê, phong co quắp, sắc mặt xanh đen, lại làm cho không ỉa chảy hoặc phân có máu
mủ, phải nghĩ đến trúng độc khuẩn lỵ (nhất là trẻ em thì thường thấy), cần chú ý
theo dõi thường xuyên biến hoá của hô hấp, mạch chuyển và huyết áp, kịp thời
tiến hành thông ruột hoặc dùng ngón tay móc từ trong hậu môn lấy phân ra làm hoá
nghiệm để nhanh chóng chẩn đoán xác minh.
5. Bệnh này đã kéo dài từ hai tháng trở lên, đau bụng ỉa chảy, phân có máu mủ
lúc phát lúc dừng. trở đi trở lại không khỏi. 'hoặc số lần đại tiện tăng nhiều,
có nhầy mà phân có máu mủ không rõ rệt thì đều thuộc về bệnh lỵ mạn tính, cần
làm xét nghiệm riêng với viêm ruột mạn tính, với bệnh huyết hấp trùng (tham khảo
bệnh hữu quan).
6. Xét nghiệm chẩn đoán riêng bệnh lỵ khuẩn và bệnh lỵ amíp (bảng 2- 1 )
PHƯƠNG PHÁP CHỮA
Hiện nay thực tế chứng minh, châm cứu và Đông dược chữa bệnh lỵ cấp tính, nhất
là khuẩn lỵ, có đủ đặc điểm giản tiện, có nghiệm, giá thành phù hợp. Do ở bệnh
tình nặng nhẹ và cấp mạn khác nhau, có khi lại cần dựa vào phương pháp biện
chứng thí trị để tiến hành chữa.
1. Biện chứng thí trị:
Cấp tính bạo lỵ thường thuộc thực chứng. Nói chung là thấp nhiệt lỵ trị thì phải
lấy thanh nhiệt hoá thấp, điều khí đạo trệ; chứng nặng là lỵ dịch độc thì cần
dùng thêm tễ lớn thuốc thanh nhiệt giải độc.
Lỵ mạn tính lâu ngày thường thuộc hư chứng, phải điều bổ tỳ vị làm chính, phân
biệt dương hư hoặc âm thương mà xử lý và liệu chừng phối hợp thuốc cố sáp; nếu
như thấy trong hư có thực chứng, có thể lấy thêm phép thanh trường hoá thấp
đạo trệ.
a. Thấp nhiệt lỵ:
Ngoài chủ chứng đã kể ở trên ra, lại thấy ngực dạ bĩ bứt rứt, miệng khô đắng mà
dính, tiểu tiện ngắn đỏ, hoặc có sợ lạnh, phát sốt, rêu lưỡi vàng trơn, mạch
hoạt sác hoặc nhu sác.
Cách chữa: Thanh nhiệt hoá thấp, điều khí đạo trệ.
Bài thuốc ví dụ: Thược dược thang gia giảm.
Hoàng liên
1 đồng cân, Hoàng cầm 3 đồng cân.
Bạch thược
3 đồng cân, Mộc hương 1,5 đồng cân,
Chỉ xác 3 đồng cân,
Mã xỉ hiện 1 lạng.
* Gia giảm:
+ Mới dấy bệnh có biểu chứng, thấy sợ lạnh, phát sốt, đầu đau, tứ chi đau đớn,
thêm Kinh giới, Phòng phong, Cát căn, mỗi thứ 3 đồng cân.
+ Nghiêng về sốt nhiều, có phát sốt, đầu đau, tâm phiền, miệng khô, phân đỏ
nhiều trắng ít, những chứng trạng bụng đau và lý cấp hậu trọng đều rất rõ rệt,
mạch sác, thì gia Ngân hoa 5 đồng cân, Địa du 5 đồng cân.
+ Nghiêng về thấp nặng, thấy quặn bụng, ngực buồn bằn, phân trắng nhiều đỏ ít,
rêu lưỡi trắng trơn, mạch nhu, thì gia Hoắc hương, Xuyên phác, Thương truật
mỗi thứ 3 đồng cân.
+ Kèm có tích trệ, thấy đau bụng, căng đầy, sợ sờ nắn, đại tiện không khoan
khoái, mùi hôi tanh tao rất nặng, rêu lưỡi dày và trơn, dùng thêm Đại hoàng
2-3 đồng cân, Binh lang đồng cân, Chỉ xác thì thay dùng bằng
Chỉ thực 3 đồng cân.
b. Dịch độc lỵ:
Phát bệnh nhanh gấp, thể bệnh rất nặng, các loại chứng trạng chủ yếu đều rất
nghiêm trọng, phân lấy máu mủ làm chủ hoặc ra thuần máu tơi, lại thấy sốt cao,
vật vã, thậm chí ham nằm, hôn mê, co quắp, rêu trên lưỡi vàng trơn, chất lưỡi
hồng, mạch sác đại hoặc tế sác.
Cách chữa: Thanh nhiệt giải độc.
Bài thuốc ví dụ: Bạch đầu ông thang gia vị.
Bạch đầu ông
1 lạng, Trần bì 3 đồng cân,
Hoàng liên
1 đồng cân, Hoàng bá 3 đồng cân,
Ngân hoa 5 đồng cân,
Địa du 5 đồng cân.
Đan bì 3 đồng cân, Xích thược 3 đồng cân,
Chỉ xác hoặc Chỉ
thực 3 đồng cân, Mộc hương 1,5 đồng cân.
* Gia giảm:
+ Kiêm có nôn mửa không thể ăn vào, gia Khương Bán hạ 3 đồng cân, Sinh
Đại hoàng 3-5 đồng cân (hậu hạ).
+ Thấy ham nằm hoặc hôn mê, vật vã là chứng trạng nhiệt độc vào doanh, gia riêng
một hạt Thần tê đan ngoáy vào uống.
+ Thấy co giật, hôn quyết, là nhiệt động can phong, gia riêng Tử tuyết đan
5 phân, ngoáy vào uống.
+ Trẻ em chứng trạng trúng độc rõ rệt, có thể dùng Sinh Đại Hoàng 5 đồng
cân, sắc lấy nước cốt đặc rót vào mũi.
+ Loại hình này nếu mất nước nghiêm trọng, rối loạn chất điện giải hoặc xuất
hiện choáng ngất do trúng độc, phải dùng kết ~ hợp Đông Tây y mà chữa.
c. Hư hàn lỵ:
Bệnh lỵ lâu dài không khỏi, phát trở đi trở lại, mỗi lần bởi ăn không cẩn thận
hoặc bị lạnh mát mà dụ phát, phân mỏng lỏng có lẫn nước nhầy trắng vàng, hoặc
dịch dính tím đen, thậm chí trơn tuột ra không cầm, lòi dom, vùng bụng đau âm ỉ
từng lúc, ưa sờ nắn, ưa nóng ấm, ăn ít, thần mệt mỏi,sợ lạnh, tứ chi mát lạnh,
sắc mặt vàng úa, chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch tế nhược.
Cách chữa: ôn bổ cố sáp.
Bài thuốc ví dụ: Dưỡng tạng thang gia giảm.
Đảng sâm 3 đồng cân,
Bạch truật 3 đồng cân,
Bào khương
1 đồng cân, Nhục quế 5 phấn.
Bạch đậu khấu
3 đồng cân, Thạch lựu bì 3 đồng cân.
Kha tử bì 3 đồng cân.
* Gia giảm:
+ Khí hư, phân ra trơn tuột, lòi dom, gia Hoàng kỳ 3 đồng cân, Thăng
ma 2 đồng cân.
+ Dương hư, sợ lạnh, chân tay lạnh mát, mạch trầm, gia Chế Phụ tử 1,5
đồng cân.
+ Thấp nhiệt không mát, kèm chứng trạng lỵ cấp tính liệu chừng gia thuốc thanh
nhiệt giải độc (tham khảo phép trị lỵ thấp nhiệt và lỵ dịch độc kể trên hoặc
phương lẻ ở đoạn dưới), bỏ Kha tử, Nhục đậu khấu là thuốc cố sáp.
d. Âm thương lỵ:
Lỵ mạn tính lâu ngày, kéo dài không khỏi, xuất hiện chứng trạng âm thương, trong
tim nóng bứt rứt, miệng khô, thế hư, sức kém, chất lưỡi đỏ tía, ít rêu, mạch tế
sác.
Cách chữa: Dưỡng âm thanh nhiệt.
Bài thuôc ví dụ: Trú xa hoàn gia vị.
Hoàng liên
1 đồng cân, A giao 3 đồng cân,
Bào khương
8 phân, Đương quy 3 đồng cân,
Bạnh thược
3 đồng cân, Ô mai 3 đồng cân,
Địa du 3 đồng cân,
Cam thảo 1 đồng cân.
* Gia giảm:
+ Âm thương rõ rệt, liệu chừng gia Nam sa sâm 3 đồng cân, Sinh địa
3 đồng cân, Thạch hộc 3 đồng cân.
+Thấp nhiệt không mát, lại thấy chứng trạng lỵ cấp tính, liệu chừng gia thuốc
thanh nhiệt giải độc (tham khảo phép trị lỵ thấp nhiệt và lỵ dịch độc kể trên
hoặc phương lẻ ở đoạn dưới).
2. Phương lẻ:
a. Địa cẩm, Lạt liễu, Phượng vĩ thảo, Phượng nhỡn thảo, Mã xỉ hiện, Thiết
hiện thái, Bạch đầu ông, Ngân hoa, Địa du, Khổ sâm, Thuỷ dương mai, Toán bàn tử
căn,, Xa tiền thảo, Mã tiền thảo, Tiên hạc thảo, Khổ trấp, dược vật
kể trên có thể chọn từ 1 - 3 loại, mỗi lần dùng từ 5 đồng cân đến 1 lạng (loại
tươi lấy gấp đôi lượng), sắc uống, mỗi ngày 1 -2 tễ. Chủ yếu là dùng hợp ở
khuẩn lỵ cấp tính. Bạch đầu ông có hiệu quả đối với bệnh lỵ amíp
b. Tỏi củ hấp chín nhừ uống trong, mỗi lần một củ, môi ngày ba lần, có
thể trị bệnh lỵ khuẩn. Cũng có thể dùng 2 củ tỏi và 1 nắm rau sam sắc uống, mỗi
ngày 1 tễ. Dịch ngâm ra của Tỏi 1 0%. Có thể làm thụt giữ ở trong ruột, dùng hợp
ở lỵ mạn tính.
c. Rễ xương bồ, nghiền thành bột mịn đóng bao chất dẻo, mỗi viên đóng 0,3
gram, mỗi lần uống 3 viên (trẻ em giảm một nửa), mỗi ngày 3 lần. Dùng hợp ở lỵ
khuẩn và viêm ruột.
d. Lá chè xanh hoặc hoa chè 100 gam, thêm nước chừng gấp bảy lần, đun sôi
trong 20 phút, bớt nóng sẽ lọc lấy dịch đậm cô đặc đến 75cm3 để nguội
thêm rợu ngon, làm cho toàn lượng thành 100 cm3 là được, mỗi lần
uống 2cm3, cứ 6 giờ đồng hồ uống 1 lần.
Dùng ở khuẩn lỵ cấp tính.
đ. Xuân căn bạch bì 2 lạng, sắc uống, mỗi ngày một tễ. Dùng hợp ở lỵ lâu
dài .
e. Nha đảm tử nhân mỗi lần 10 hạt, dùng Long nhãn nhục bọc bao
nuốt uống xuống một ngày 3 lần. Dùng hợp ở bệnh lỵ amíp.
3. Phép chữa mới:
Phép chữa thuỷ châm tiêm 2cm3 nước vào huyệt Thạch môn (dưới rốn 2
thốn, nếu tiêm trở lại nhiều lần cũng có thể lấy chỗ 1,8 thốn hoặc 2.2 thốn),
huyệt (dưới rốn 2,5 thốn).
4. Chữa bằng châm cứu:
a. Thể châm:
Huyệt Thương cự hư
* Gia giảm:
+ Phát sốt (trên 380C), gia Khúc trì.
+ Sốt lặng (trên 39oC), gia Khúc trì, Hợp cốc.
+ Quặn bụng nôn mửa, gia Nội quan.
+ Số lần đại tiện rất nhiều hoặc bụng đau lý cấp hậu trọng rất dữ, gia thiên
khu.
Lưu kim nói chung 20-30 phút, khoảng cách làm kích thích mạnh đối với chng nhẹ
thì 1-2 lần, chứng nặng từ 2-3 lần. Số lần châm mỗi ngày là chứng nhẹ 2 lần,
chứng nặng 3 lần.
b. Nhĩ chân:
Đaị trường, Tiểu trường, Trực trường hạ đoạn, thần môn, Giao cảm.
BÀI THUỐC THAM KHẢO
1. Hương liên hoàn:
Mộc hương 1 đồng cân, Hoàng liên 2 đồng cân, mỗi lần uống 1 đồng cân, một ngày 2
lần. Dùng hợp ở thời kỳ đầu bệnh lỵ chứng nhẹ.
2. Mộc hương Binh lang hoàn:
Mộc hương, Binh lang, Thanh bì.
Trần bì, Hoàng liên, Nga truật, mỗi thứ 1 lạng, Hoàng bá, Đại
hoàng mỗi thứ 3 lạng; Sao hương phụ, Khiên ngưu tử, mỗi thứ 4 lạng.
Nghiền chung nhỏ mịn; 4 lạng hoà tan ra nước ráy làm viên, mỗi lần uống 1 ,5
đồng cân, một ngày 2 lần. Dùng hợp ở bệnh lỵ mới nổi lên kèm có trệ đồ ăn đại
tiện không thoải mái.
3. Phỉ thực đạo trệ hoàn:
Sinh Đại hoàng, Xuyên hoàng liên,
Hoàng cầm, Phục linh, Bạch truật, chỉ thực, Lục khúc, Trạch tả.
Nghiền chung nhỏ mịn, nấu hồ Lục khúc làm viên.
Cách uống và chứng phù hợp như Mộc hương, Binh lang hoàng ở trên.
4. Phụ tứ lý trung hoàn:
Nhân sâm, can khương, Chích cam
thảo, Bạch truật, Chế Phụ tử.
Lượng dùng như trên. Dùng hợp ở chứng lỵ mạn tính lâu ngày (hư hàn lỵ).
5. Ô mai hoàn:
Ô mai nhục 2 lạng, Tế tân 6 đồng cân, Can khương 1 lạng,
Quế chi, Đẳng sâm, Hoàng bá, Chế Phụ phếên, mỗi thứ 6 đồng
cân. Hoàng liên 1 lạng 6 đồng cân, Đương quy 4 đồng cân, Xuyên
tiêu 4 đồng cân. Nghiền chung nhỏ mịn, luyện mật làm viên.
Lượng dùng như trên. Dùng hợp ở lỵ mạn tính lâu ngày, nóng rét lẫn lộn.
6. Bổ trung ích khí hoàn:
Hoàng kỳ, Chích Cam thảo, Đẳng
sâm, Đương quy, Trần bì, Thăng ma, Sài hồ, Bạch truật.
Lượng dùng như trên.
Dùng hợp ở lỵ mạn tính lâu ngày có lòi dom.
7. Thần tê đan:
Tê giác tiêm
6 lạng, Thạch xương bồ tươi 6 lạng, Hoàng cầm 6 lạng, Sinh địa
tươi 1 cân, Ngân hoa tươi (dùng tươi giã lấy nước là tốt nhất) 1 cân,
Cam trung hoàng 4 lạng, Liên kiều 10 lạng, Bản lam Căn
9 lạng, Đậu xị 8 lạng, Huyền sâm 7 lạng, Thiên hoa phấn 4
lạng, Tử thảo 4 lạng.
Trừ Thạch xương bồ tươi, Sinh địa tươi, Đậu xị ra, các
thuốc còn lại lấy bột mịn sạch, trộn đều vào nhau, lại đem Thạch xương bồ
tươi Sinh địa tươi đập giã lấy nước. Đậu xị thì đun nhừ nát, trộn
vào trong bột mịn của thuốc, giã và trộn đều làm viên, mỗi hợp tễ như thế viên
thành 480 hạt.
8. Tử tuyết đan:
Hoạt Thạch
1 cân, Thạch cao 1 cân, Hàn thuỷ thạch
1 cân giã ra sắc nước bỏ bã, cho vào các thuốc sau đây:
Linh dương giác
5 lạng, Thanh Mộc hương 5 lạng, Tê giác 5 lạng, Trầm hương
5 lạng, Đinh hương 1 lạng, Thăng ma 1 cân, Huyền sâm 1 cân,
Chích cam thảo nửa cân.
Tán vị thuốc trên vừa lấy đũa đảo, cho vào nước sắc thuốc trên đun, bỏ bã cho
vào thuốc sau đây:
Phác tiêu 2 cân, Tiêu
thạch 2 cân.
Lấy cho sạch sẽ, cho vào nước thuốc trước, sắc nhỏ lửa, không ngừng tay quấy đến
khi nước muốn ngưng, lại thêm vào hai vị sau đây:
Chu sa 3 lạng
(nghiền nhỏ), Xạ hương 1 lạng 2 đồng cân (nghiền nhỏ).
Thuốc vào nước trộn đều, ngưng thành giống như tuyết hoa cho nên gọi là tử
tuyết.
TAM KHẢO BỆNH HỌC TÂY Y.
1 . Bệnh lỵ A míp
(Nhắc lại lâm sàng)
a. Về căn nguyên
Trong bệnh lỵ amíp, vai trò của vi trùng ruột rất quan trọng, nó chuẩn bị cho sự
nhiễm amíp. Vấn đề này không những đã được thực hiện trên thực nghiệm mà còn
được chứng minh ở cả lâm sàng: Có nhiễm trùng ruột mới dễ bị nhiễm amíp, và lỵ
trực trùng thường hay phối hợp với lỵ amíp. Do đó trong công tác điều trị, bao
giờ cũng phái quan tâm đến sự bội nhiễm.
b. Về triệu chứng
Căn bản của bệnh lỵ là táo bón: Khi đi ỉa, bệnh nhân chỉ đi ra có mũi và máu chứ
ít chất phân cho nên rất khó chịu, bụng trướng.
Trong việc điều trị, không nên tìm cách cầm đi ỉa lại mà phải làm sao cho bệnh
nhân đi ỉa được dễ dàng.
c. Về biến chuyển
Bệnh lỵ là một bệnh dễ tái phát; căn bản đấy là một bệnh mạn tính có từng đợt
cấp diễn, kịch phát. Khi amíp ở trong ruột, nó làm viêm niêm mạc ở đại tràng, ở
manh tràng, hoặc ở đại tràng xích-ma. Trong lỵ cấp, tổn thương thường ở đại
tràng xích-ma và trực tràng; trong lỵ mạn tính, tổn thương có thể lên đến manh
tràng. ở những nơi đó, amíp gây ra những tổn thương sâu và rộng ở niêm mạc, khu
trú ở đấy và biến thành kén (kyste) là một hình thức rất khó tiêu diệt cho nên
khi bệnh mới phát, cần phải:
Đánh mạnh để diệt nhanh trùng amíp.
Đánh lâu để diệt hẳn những phần tử còn sót lại, tránh chúng biến thành kén.
Mặt khác, trong mỗi đợt tái phát, tổn thương càng sâu rộng hơn, đại tràng bị
viêm loét thêm nên không đủ sức đề kháng nữa, dễ bị nhiễm trùng thêm.
Trong khi đó bệnh nhân theo một chế độ ăn uống thiếu thốn, khắt khe, cho nên
toàn cơ thể bị suy yếu, không còn sức đề kháng toàn thân nữa.
2. Bệnh lỵ trực trùng
Đây là một bệnh nhiễm trực trùng Xi-ghe-la (Schighella) đường ruột bệnh cấp tính
hay lây thành dịch nhỏ, nhất là đối với trẻ em.
Truyền bệnh do thức ăn, nước uống bị nhiễm vi trùng từ phân người mang bệnh.
Triệu chứng:
- Sốt cao.
- Đau bụng, mót ỉa.
- Đi ỉa nhiều lần (20-30 lần) mỗi lần phải rặn, có một ít mũi, máu, có khi đi
rửa nhiều.
- Bệnh nhân mệt nhọc, lưỡi khô, mồm đắng, đái ít, mạch nhanh, có thể trụy mạch
và chết.
- Khi khỏi thì khỏi hẳn, không để lại di chứng, ít biến chứng.
Có hai biến chứng:
Thấp khớp do lỵ trực trùng.
- Viêm giác mạc, niệu quản, khớp (hội chứng De Reiter hay Fiessingcr - Leroy).
Ở nước ta loại thông thường nhất là Xi-ghe-la Flêch-nơ-ri (Schigella Flexneri).
|