Nước tiểu như cháo sữa phần lớn do bệnh giun chỉ gây ra. Chủ yếu thuộc ở phạm
trù “niệu trọc" của Đông y, biến hoá bệnh lý ấy là trung hư tỳ nhược, vận hoá
mất khoẻ thủy cốc tinh vi ngược lại làm thấp trọc, tích thấp sinh nhiệt, rót
xuống bàng quang mà tới nước tiểu đục như tương, nếu tà uất âm thương, huyết
lạc bị tổn, thì có thể kiêm đi xuống đục đỏ; bệnh lâu ngày tỳ hư khí hãm, thận
hư bất cố, không thể phân ra trong thì nhất định phải đục, có thể làm cho phát
cơn lặp lại nước tiểu đục nhiều lần, kéo dài không dứt.
ĐIỂM CẦN KIỂM TRA ĐỂ CHẨN ĐOÁN
1 . Lặp lại có khoảng cách phát cơn nước tiểu màu trắng như sữa, như đậu tương
hoặc dạng nước vo gạo. Nửa số kể trên có thể kèm có nhìn thấy bằng mắt thường
hoặc dưới kính hiển vi là nước tiểu có máu, làm cho nước tiểu hiện rõ ra bột màu
đỏ. Làm mệt, ăn thức ăn béo ngậy có thể lôi kéo phát bệnh hoặc bệnh thêm dữ dội.
2. Có trải qua phát cơn, lặp lại viêm cấp tính ống lim phô và hạch lim phô,
kiểm tra thân thể có hạnh hoàn sưng to, màng bao bìu chứa dịch, da voi ở đùi
dương tính.
3. Khoảng cuối, kiểm tra huyết dịch, hoặc làm ly tâm lắng đọng nước tiểu có thể
tìm thấy ấu tơ nhỏ của giun chỉ. Thực nghiệm ether nước tiểu dương tính.
4. Nước tiểu như cháo sữa phải khu biệt nhau với vẩn đục của loại muối toan vô
cơ. Cái trước, sau khi đặt ổn định phân làm 3 lớp : Lớp trên là mỡ cháo sữa, lớp
dưới là cục cháo sữa, lớp đáy là vật bã chìm của hồng cầu. Cái sau, sau khi đặt
ổn định có bã chìm sắc trắng, trên là dịch lắng trong, sau khi đun nóng hoặc lại
thêm ít giấm chua, bã chìm sắc trắng mất đi, chuyển thành dịch thể lắng trong.
PHƯƠNG PHÁP CHỮA
1. Biện chứng thí trị
Chứng trị bệnh này phải phân tiêu bản hư thực. Thời kỳ đầu thường là thấp nhiệt
tiêu thực chứng, lâu ngày phát cơn lặp lại thì thấy bản hư chứng (tỳ thận khuy
hư). Trị tiêu lấy thanh nhiệt lợi thấp làm chủ, tri bản thì phải bổ trung ích
khí, hoặc ích thận cố nhiếp. Nếu thuộc hư thực hiệp tạp, thì tiêu bản kiêm cố.
a. Thấp trọc hạ chú:
Nước tiểu vẩn đục có cục, trên có dầu nổi, hoặc dây tơ huyết, huyết cục, tiểu
tiện không thông, bụng dưới trướng xệ xuống, niệu đạo hoặc có cảm giác nóng đau,
miệng khô đắng, rêu lưỡi vàng trơn, chất lưỡi hồng, mạch huyền sác
Cách chữa: Thanh lợi thấp nhiệt.
Bài thuốc ví dụ: Tỳ giải ẩm gia giảm.
Tỳ giải
3 đồng cân, Mộc thông 1 đồng cân,
Thạch vi
5 đồng cân, Xa tiền thảo 1 lạng,
Thạch xương bồ
1 đồng cân, Đài Ô dược 2 đồng cân,
Phục linh
4 đồng cân, Sinh Cam thảo 1 đồng cân.
Gia giảm:
+ Thấp uất hoá nhiệt, nước tiểu đục hiện rõ dạng cục mảnh, khi đi tiểu không
thông, miệng đắng, rêu lưỡi vàng thì bỏ Thạch xương bồ; gia Hoàng bá
3 đồng cân, Tri mẫu 3 đồng cân, Biển súc 5 đồng cân.
+ Thấp nhiệt thương âm, hun hại huyết lạc, hư phiền miệng khát, nước tiểu dây
sợi máu, cục máu, chất lưỡi hồng, mạch tế sác, bỏ xương bồ, Ô dược; gia
Sinh địa 4 đồng cân. Đan bì 3 đồng cân, Mạch đông 3 đồng
cân, Bạch mao căn 1 lạng, Tiểu kế 3 đồng cân, Quy bản
5 đồng cân.
b. Tỳ hư khí hãm: Nước tiểu sắc vẩn đục như tương trắng, bụng dưới trướng xệ
xuống, đi tiểu không thông, mỗi lần bởi làm mệt hoặc ăn thứ béo ngậy thì phát
cơn lặp lại, người gầy còm, sắc mặt vàng úa, thần mỏi thiếu sức, chất lưỡi nhạt,
mạch hư nhuyễn.
Cách chữa:
ích khí thăng thanh.
Bài thuốc ví dụ:
Bổ trung ích khí thang gia giảm.
Đảng sâm
3 đồng cân, Hoàng kỳ 3 đồng cân.
Bạch truật
3 đổng cân. Vân phục linh 3 đồng cân,
Chích Cam thảo
1,5 đồng cân, ổi ích trí nhân 3 đồng cân,
Sao Hoài sơn dược
5 đồng cân, Chế thăng ma 1 đồng cân.
Nộn Sài hồ
1 đồng cân.
Gia giảm
:
Nếu kiêm nước tiểu có máu, gia Bào Khương thán 1 đồng cân, Huyết dư
thán 3 đồng cân .
Thận hư bất cố: Nước tiểu đục kéo dài, lặp lại lâu ngày, nước tiểu màu sữa
trắng như mỡ ngưng lại hoặc keo nguội lạnh, tinh thần uỷ mị, lưng buốt đùi
mềm, huyễn vận tai ù, lưỡi ít rêu, mạch tế vô lực
Cách chữa:
ích thận cố nhiếp
Bài thuốc ví dụ:
Thục địa
3 đồng cân, Sơn dược 3 đồng cân,
Sơn thù nhục
3 đồng cân, Thỏ ti tử 3 đồng cân,
Kim anh tử
3 đồng cân, Khiếm thực 3 đồng cân,
Liên nhục
3 đồng cân, Phục linh 4 đồng cân.
Gia giảm :
Thận hư rõ rệt, hình hàn chi lạnh, sắc mặt trắng bợt, chất lưỡi nhạt, gia Chế
Phụ tử phiến 2 đồng cân, Nhục quế 1 đồng cân, Lộc giác
phiến 3 đồng cân.
+ Ngoài ra, nếu tỳ hư hoặc thận hư kiêm có thấp nhiệt đều có thể liệu chừng thêm
thuốc thanh lợi thấp nhiệt kể ở trên.
2. Phương lẻ
Tề Thái hoa
(capsella bursa pastorls (Liến.) Medie.), Long tu thảo, Phi liêm, Nhu đạo
căn tu (râu rễ lúa nếp), Thủy ngô công, Thủy cần thái căn (rễ rau
cần nước), Thuỷ trượng thông, Lục nguyệt tuyết, Kim tiền thảo, Ngọc mễ
tu, Xa tiền thảo, Hướng nhật quỳ can tâm (lõi cành cây hướng nhật
quỳ).
Số thuốc kê trên chọn lấy 1- 2 loại, lượng dùng 1 - 2 lạng, sắc nước uống, mỗi
ngày một tễ (Phi liêm dùng riêng một mình nó có thể tới 4 lạng, thêm 4
lạng đường trắng; Thủy ngô công dùng riêng nó có thể thêm Quế
viên (Long nhãn) 2 lạng hoặc Hắc táo 2 lạng; rễ rau cần
nước vẫn dùng 4 lạng).
3. Cách chữa mới:
a. Huyệt vị chôn chỉ : Bàng quang du, Quan nguyên du.
b . Thể châm: Quan nguyên thấu Trung cực, Túc tam lý, Tam âm giao
c. Nhĩ châm : Thận, Bàng quang, Niệu đạo, Nội phân bí.
THAM KHẢO BỆNH HỌC TÂY Y
Bệnh này rất thường gặp ở nước ta, cùng với các biểu hiện khác của bệnh giun chỉ
như chân voi, bìu dái phì đại ở một số tỉnh có nhiều loại giun đó (Hải Dương,
Hưng Yên, Bắc Giang).
Tiên lượng bệnh không xấu nhưng bệnh nhân thường rất lo lắng. Bệnh diễn biến
từng đợt khó biết trước được.
Điều trị Nội khoa rất khó khăn, không có kết quả, một số phương pháp điều trị
khác như quang tuyến liệu pháp vùng thận, hay phẫu thuật cắt mạch bạch huyết đã
được kết quả cần lưu ý. Chỉ định chưa được đề ra rõ ràng và thủ thuật cũng
chưa được phổ biến.
1. Nhắc lại bệnh học.
Đây là một biểu hiện của bệnh giun chỉ loại Filaria Bancrofti. Giun trưởng
thành khu trú trong các bạch mạch gây viêm tắc và phồng bạch mạch: Sự tuần hoàn
bạch huyết bị cản trở, có chỗ dòng bạch huyết bị đảo ngược do áp lực tăng lên.
Nếu là bạch mạch của thận, bạch huyết sẽ trở vào trong bể thận sinh ra lỗ dò.
Bệnh nhân đi đái ra dưỡng chấp (bạch huyết).
a. Triệu chứng:
Bệnh biến chuyển từng đợt, tuỳ theo tình hình bạch mạch.
Trong đợt đó bệnh nhân đái rạ dỡng chấp nhất là sau bữa ăn, có khi đái ra máu,
nước tiểu trắng đục như nước gạo, ra ngoài đông đặc lại.
Thật ra bệnh không ảnh hưởng nhiều đến sức khoẻ chung nhưng bệnh nhân sợ sệt, lo
lắng và ảnh hưởng đến công tác.
b. Tiến triển
Khi tăng, khi giảm; có khi hết hẳn trong thời gian lâu rồi lại xuất hiện. Không
hay rất ít ảnh hưởng đến chức phận của thận.
2. phẫu thuật
Cắt bên thận có rò sau khi chụp thận có bơm thuốc cản quang và phát hiện chắc
chắn.
Hiện nay, người ta đang tiến hành tìm cách phát hiện lỗ rò bạch mạch quanh thận
bằng bơm chất mầu vào bể thận và khi thấy được tiến hành cắt các bạch mạch đó.
Chỉ định trong các trường hợp đó là bệnh tái diễn nhiều lần, kéo dài, ảnh hưởng
đến toàn thể trạng và sinh hoạt của bệnh nhân.
3. Kết luận (của Tây y)
Hiện nay (1971) chưa có phương pháp điều trị chứng đái ra dưỡng chấp đơn giản;
công hiệu cũng không chắc chắn.
Chỉ có phòng bệnh chống lại với muỗi truyền bệnh như đối với sốt rét là tốt
nhất và phát hiện sớm ấu trùng giun chỉ để điều trị trước khi giun khu trú trong
các bạch mạch.
|