Cao huyết áp có thể phân hai loại nguyên phát tính và thứ phát tính, cái sau là
một loại chứng trạng do các loại bệnh tật khác dẫn tới như thận tạng, nội tiết,
bệnh biến trong hộp sọ, mà không phải là một bệnh tật độc lập; cái trước gọi là
bệnh cao huyết áp, là một loại bệnh tim mạch mạn tính toàn thân, thuộc ở phạm
trù đầu thống, huyễn vận, can dương trong Đông y học, lại có quan hệ nhất
định với “tâm quý, hung bại, trúng phong:'.
Nguyên nhân phát bệnh là âm dương trong cơ thể mất cân bằng, lại thêm tinh thần
căng thẳng kéo dài, lo nghĩ buồn giận hoặc quá nghiện rượu cùng thức ăn cay béo
mà tới nỗi tâm can dương cang, hoặc can thận âm hư, hai cái giúp nhau làm nhân
quả, lại có thể phát sinh hoá hoả, động phong, sinh đàm là biến hoá bệnh lý. Nói
chung thời gian đầu nghiêng về dương cang là nhiều; thời gian giữa thường
thuộc về âm hư, dương cang, hư thực thác tạp; thời gian sau thường thấy âm hư,
nhiều lắm thì âm thương tới dương hoặc lấy dương hư làm chủ.
ĐIỂM CẦN KIỂM TRA ĐỂ CHẨN ĐOÁN.
1. Chứng trạng thường thay có: Đầu tối, đầu đau, đầu trướng, huyễn vận, tai ù,
tâm hoảng, tứ chi tê như gỗ, mặt đỏ, phiền thao (vật vã) mất ngủ.
2. Huyết áp 140/90 trên cột thuỷ ngân.
3. Bệnh trình rất dài, xuất hiện tâm hoảng, tim thổn thức thở gấp, hoặc về đêm
hít thở khó khăn là thời chứng. phải kiểm tra tâm tạng.
Nếu phát hiện phía trái tâm tạng giãn to ra, vùng mỏm tim có tạp âm thì tâm thu
dạng gió thổi, van động mạch chủ âm thứ hai cang tiến, là đưa ra rõ ràng cao
huyết áp bệnh tâm tạng.
4. Nếu phát hiện huyết áp đột nhiên lên cao, kèm có chứng trạng đau đầu dữ dội
đầu xoay, quặn bụng trên, nôn mửa, ý thức chướng ngại, co quắp hoặc tạm thời
liệt nửa người, mất tiếng,v.v... đưa ra rõ ràng cao huyết áp bệnh não (tức
hình ảnh nguy của cao huyết áp), bệnh tình nguy nặng.
PHƯƠNG PHÁP CHỮA
1. Biện chứng thí trị.
Biện chứng bệnh này đầu liên phải phân biệt tiêu bản hư thực, tiêu thực là
phong dương thượng cang, trị thì lấy tiềm dương tức phong làm chủ, có hiệp với
đàm hoả thì mượn lấy thanh hoả hoá đàm; bản hư thường là can thận âm hư, trị
thì lấy tư dưỡng can thận làm chủ, khi thấy cần thì phải lấy tiêu bản kiêm
cố; nếu âm hư cập dương, lại cần chú ý bổ dương.
a. Phong dương thượng cang:
Đầu huyễn vận, mắt hoa, tai ù, vùng thái dương và vùng đỉnh đầu đau co kéo, đầu
nặng chân nhẹ, bắp thịt nhảy động, bàn tay run, môi lưỡi và tay chân tê như gỗ
hoặc có co rút bàn tay bàn chân, gáy cứng, tiếng nói không dễ, rêu lưỡi trắng
mỏng, chất lưỡi hồng, mạch huyền hoặc kình.
Cách chữa
Tiềm dương tức phong.
Bài thuốc ví dụ
Thiên ma Câu đằng ẩm gia giảm.
Thiên ma
1,5 đồng cân, Câu đằng 4 đồng cân bỏ vào sau.
Bạch tật lê
4 đồng cân, Cúc hoa 3 đồng cân,
Hạ khô thảo
5 đồng cân, Hy thiêm thảo 3 đồng cân,
Sú Ngô đồng
3 đồng cân, Địa long 3 đồng cân,
Sinh mẫu lệ
1 lạng, Trân châu mẫu 1 lạng, hoặc Thạch quyết minh 5 đồng cân bỏ
vào trước đun trước.
Gia giảm:
+ Nếu đầu đau rất nhiều, mắt đỏ, mặt hồng, phiền thao dễ cáu giận, miệng đắng,
rêu lưỡi vàng thì bỏ Hy thiêm thảo, Sú Ngô đồng; phối chừng
Long đảm thảo 1,5 đồng cân, Hoàng cầm 3 đồng cân, Đan bì 3
đồng cân. Hoặc uống riêng bột Linh dương, mỗi lần 1 phân, một ngày hai
lần uống.
+ Nếu thể béo nhiều đờm, đầu tối mắt hoa nặng, chi thể nặng lại tê như gỗ, rêu
lưỡi trơn nhẫy, thì bỏ Mẫu lệ, Trân châu mẫu; thêm chừng Trần đảm tinh
1,5 đồng cân, Trúc nhự 3 đồng cân, Trúc lịch Bán hạ 3 đồng cân,
Cương tàm 3 đồng cân, Quất hồng 1,5 đồng cân.
b. Can thận âm hư:
Đầu tối đầu đau, huyễn vận, tai ù, mắt hoa, nhìn vật mơ hồ, tâm hoảng dễ sợ, mất
ngủ nhiều mộng, lưng đùi buốt mềm, hoặc có di tinh, hình gầy miệng khô, mặt đỏ
hoả bốc lên, chất lưỡi hồng, ít rêu, mạch tế huyền sác.
Cách chữa
Tư dưỡng can thận.
Bài thuốc ví dụ
Phức phương đầu Ô hoàn gia giảm.
Chế Hà đầu ô
5 đồng cân, Đại sinh địa 4 đồng cân
Câu Kỷ tử
3 đồng cân, Quy bản 5 đồng cân,
Tang thậm tử
3 đồng cân, Tang ký sinh 5 đồng cân,
Đỗ trọng
3 đồng cân, Mẫu lệ 1 lạng
Linh từ thạch
5 đồng cân
Gia giảm:
+ Tâm hoảng dễ sợ, mất ngủ rất nhiều, có thể gia Sao Táo nhân 3 đồng cân,
Bá tử nhân 3 đồng cân, Đan sâm 3 đồng cân.
+ Nếu âm hư cập dương, kiêm thấy sắc mặt trắng bợt, chi dưới buốt mềm, đái
đêm nhiều hoặc có liệt dương hoạt tinh, mạch trầm tế, chất lưỡi hồng nhạt, nên
nuôi âm giúp dương, thêm chừng Tiên mao 3 đồng cân, Tiên linh tỳ
3 đồng cân, Ba kích thiên 3 đồng cân, Nhục thung dung 3 đồng cân,
Thục địa 3 đồng cân, Thù nhục 3 đồng cân; âm hư không rõ rệt thì
bỏ Đại Sinh địa, Quy bản; mặt và bàn chân phù thũng, bỏ Quy bản, Linh
từ thạch; phối Hoàng kỳ 3 đồng cân, Bạch truật 3 đồng cân,
Phòng kỷ 3 đồng cân. Hình hàn chi lạnh rất rõ rệt, có thể gia Chế phụ tử
phiến 1,5 đồng cân, Nhục quế 1 đồng cân.
2. Phương lẻ.
a. Tiểu kế thảo 1 lạng, Xa tiền thảo 1 lạng, Hy thiêm thảo
5 đồng cân, sắc uống.
b. Trắc bá diệp, Sú Ngô đồng, Rễ dâu cây, mỗi thứ 1 lạng, sắc uống.
c. Dã Cúc hoa (toàn thảo) 1 lạng, Hạ khô thảo 5 đồng cân, hoặc gia
Xa tiền thảo 5 đồng cân, Khắc thị bài thảo 1 lạng, sắc uống.
d. Hạn cần thái (rau cần cạn) bỏ lá già và râu, từ 4-6 cân, cắt nát ra
sắc với nước, cho vào lọ sành bịt kín để cho biến thành vị chua, mỗi ngày một
lần, mỗi lần uống 1 bát, thêm 80 đến 120 gam đường.
đ. Thanh Mộc hương, nghiền bột, bọc chất dẻo, mỗi lần uống 5 phân, một
ngày 3 lần uống, uống sau bữa ăn, ba tháng là một liệu trình.
e. Mã đâu linh tươi 1 lạng, sắc nước, thêm lượng đường Phù hợp uống.
g. Phương lẻ kể trên có thể dùng riêng làm cho huyết áp xuống, cũng có thể liệu
tình hợp dùng với bài thuốc biện chứng thí trị.
h. Các thứ khác như Bạch mao hạ khô thảo, Câu đằng, Quyết minh tử,
Hoàng cần, Dã Cúc hoa, Địa long, Hòe hoa, Sung uý tử, Đan bì, Đại kê, Đỗ
trọng, Tang ký sinh đều có tác dụng giáng áp nhất định có thể tuỳ chứng chọn
dùng từ 2-3 vị, sắc uống, lượng dùng mỗi vị 5 đồng cân.
3. Cách chữa mới.
a. Huyệt vị liệu pháp chôn chỉ.
Lấy huyệt:
Nhóm 1 : Hợp cốc, Tam âm giao.
Nhóm 2: Huyết áp điểm, Tâm du.
Nhóm 3 : Khúc trì, Túc tam lý.
Mỗi lần châm một nhóm, 20-30 ngày làm một lần, luân lưu sử dụng 3 nhóm.
b. Huyệt vị liệu pháp thuỷ châm.
Lấy huyệt: Túc tam lý, Nội quan, Hợp cốc, Tam âm giao. Mỗi lần lấy 1 huyệt chi
trên, 1 huyệt chi dưới, luân lu sử dụng các huyệt, mỗi lần tiêm Nôvôcain 0,25%
một cm3, mỗi ngày một lần, 10-15 ngày là một liệu trình.
4. Chữa bằng châm cứu.
a. Thể châm
Phong trì, Khúc trì, Dương lăng quyền, Hành gian.
b. Nhĩ châm
Can, Thận, Rãnh giáng áp.
BÀI THUỐC THAM KHẢO
1. Dưỡng can tức phong hoàn:
Phương này có 2 phần:
a. Phục linh 7,5 cân, Sao Bạch thược 11 cân 4 lạng,
Nữ trinh tử
11 cân 4 lạng, Pháp Bán hạ 7 cân 4 lạng,
Tang thậm tử
11 cân 4 lạng, Câu đằng 15 cân,
Bá tử nhân
15 cân, nghiền chung nhỏ mịn. .
b. Sinh địa 15 cân, Hạn liên thảo 11 cân 4 lạng,
Cúc hoa
15 cân, Chê' hà đầu Ô 15 cân,
Bạch tật lê
15 cân, Cam thảo 7 cân 4 lạng,
Hạ khô thảo 7 cân 4 lạng.
Bảy vị trên đây chưng lấy nước cất đậm thay nước rảy vào bột thuốc trên làm
viên.
Mỗi lần uống 1,5 đồng cân, một ngày 2 lần uống. Dùng hợp ở chứng can thận âm
hư.
2. Thanh can hoàn:
Long đảm thảo 1 cân 8 lạng, Hoàng cầm 3 đồng cân, Câu đằng,
Bạch tật lê, Quyết minh tử, Sú ngô đồng, Địa cốt bì, mỗi thứ 4 cân,
Xuyên khung 8 lạng, Trúc lịch Bán hạ 1 cân 8 lạng, Địa long
1 cân 8 lạng, nghiền chung nhỏ mịn.
Dùng Cúc hoa, Hy thiêm thảo, Hạ khô thảo, mỗi thứ 5 cân. Sắc thang lấy
nước cốt rảy vào bột thuốc trên làm viên, mỗi lần uống 1 ,5 đồng cân, một ngày
2 lần uống. Dùng hợp ở chứng can dương thượng cang.
THAM KHẢO BỆNH HỌC TÂY Y .
Bệnh tăng huyết áp là một bệnh rất phổ biến ở các nước âu, Mỹ. ở nước ta bệnh
này có xu hướng tăng lên mặc dù tỷ lệ còn thấp hơn so với các nước khác.Điều
trị nội khoa có nhiều tiến bộ vì toàn diện, những hiện này chưa có phương pháp
đặc hiệu làm giảm huyết áp xuống mức bình thường một cách lâu dài. Chỉ có thể
làm giảm nhất thời, huyết áp tăng quá cao và hạn chế những tai biến có thể xảy
ra.
Người ta cũng chỉ biết được vài khâu trong toàn bộ cơ chế sinh bệnh tăng huyết
áp nên việc phòng bệnh và ngừa biến chứng cũng khó khăn, ít kết quả.
1 . Nhắc lại vài điểm bệnh học.
Tăng huyết áp là một triệu chứng của nhiều bệnh như:
a. Thận.
Viêm thận cả hai bên.
- Bệnh mà tổn thương chỉ ở một bên thận như lao, sỏi, teo thận hậu phát hay
bẩm sinh.
b. Động mạch.
Hẹp eo động mạch chủ bẩm sinh.
Hẹp động mạch thận.
Viêm tắc động mạch thận do xơ cứng.
c. Nội tiết.
Cường tuyến yên hay thượng thận.
U tuyến thượng thận (phéochromocytome).
Tăng huyết áp được coi là một bệnh nếu không tìm thấy những nguyên nhân nói
trên. Trong bài này, chúng tôi chỉ nói về điều trị bệnh tăng huyết áp chiếm đa
số (90%) trường hợp.
2. Các thể bệnh.
Về phương diện điều trị, chúng ta có thể chia ra hai thể bệnh, tuỳ theo sự biến
chuyển và sự xuất hiện các biến chứng.
a. Thể nhẹ.
Số tối thiểu < 12, thay đổi lên xuống.
- Không có biến chứng.
- ít biến chuyển.
b. Thể nặng.
Số tối thiểu trên 12, cố định, xu hướng tăng.
- Xuất hiện biến chứng (mắt, thận, tim).
- Biến chuyển nhanh.
Theo tuổi, tuổi nào cũng có thể nhẹ hay nặng nhưng nói chung thể nặng thường
xảy ra ở người trẻ tuổi (dưới 40 tuổi), thể nhẹ xảy ra ở người già trên 60
tuổi.
3. Cơ chế sinh bệnh.
Tăng huyết áp là hậu quả của một cơ chế phức tạp trong đó thần kinh đóng một vai
trò quan trọng, sau đó là thể dịch và nội tiết. Do thần kinh luôn luôn trong
tình trạng kích thích nên các động mạch nhỏ ngoại biên co lại, ban đầu còn cơ
năng nghĩa là hồi phục được, sau dần dần thành thực thể xơ cứng các động mạch
nhỏ nghĩa là không hồi phục được nữa, huyết áp tăng vĩnh viễn.
Tăng huyết áp là nguyên nhân dẫn đến xơ cứng (artério-sclérose) và xơ mỡ
(arthérosclérose) động mạch gây ra tất cả những biến chứng mà ta thường gặp
trên lâm sàng.
4. Chỉ định điều trị.
a. Điều trị nguyên nhân gây lăng huyết áp.
Cắt bỏ u tuyến thượng thận.
Cắt bỏ bên thận bị teo.
Phẫu thuật để làm thông động mạch thận bị tắc.
b. Điều trị triệu chứng tăng huyết áp.
Bằng thuốc an thần, ức chế thần kinh từ trung ương đến ngoại biên để làm cho
động mạch nở ra.
Tao điều kiện cho thần kinh đỡ bị kích thích.
Hoặc bằng phẫu thuật cắt một số dây thần kinh giao cảm và tuyến thượng thận.
c. Điều trị biện chứng do tăng huyết áp gây ra.
5. Phòng bệnh.
a. Phòng tăng huyết áp: Còn nhiều khó khăn.
Có những biện pháp khó áp dụng vì không thực tế hoặc không thực hiện được vì
điều kiện gia đình, đời sống của bệnh nhân. Trên thế giới có nhiều cố gắng
nhưng số người tăng huyết áp vẫn tăng
b. Phòng ngừa biến chứng của tăng huyết áp cụ thể là chảy máu não, nguyên nhân
tử vong nhiều nhất.
Nên đo huyết áp cho tất cả nhân dân và đăng ký người có huyết áp cao, giáo dục
bệnh nhân không nên quá bi quan hay ngược lại quá coi thường. Thường xuyên theo
dõi huyết áp và điều trị .
Người ta đã biết một số nguyên nhân thuận lợi gây chảy máu não mà bệnh nhân cần
tránh như:
Thay đổi thời tiết quá nhanh, từ phòng ấm ra chỗ gió lạnh, gió lùa, ra nắng đầu
trần.
Gắng sức quá đột ngột, quá kéo dài.
Bữa án quá sang, uống nhiều rượu.
Táo bón (bệnh nhân rặn lúc đi ngoài).
Giao hợp, cơn tức giận hay cảm động.
|