Chúng ta cần phải suy nghĩ sâu sắc, chính xác để nhận thức tính chất của bệnh tật, làm chỗ dựa cho trị liệu, chẳng những cần phải qua những điểm nhỏ nhằm vào người bệnh tiến hành điều tra nghiên cứu mà lại vừa phải cần đa qua tứ chẩn thu thập lại bệnh sử chứng trạng, thể chứng, là những tài liệu để phân tích tổng hợp, mới có thể làm ra chắn đoán chính xác. Quá trình đó gọi là làm biện chứng.
Yêu cầu biện chứng là: Đã cần chú ý tính chất chung của bệnh tật, lại cần chú ý đến cá tính của bệnh tật. Đã cần chú ý đến sự biến hoá cục bộ của bệnh biến, lại cần chú ý đến sự biến hoá toàn thân của người bệnh. Đã cần chú ý đến sự tiêu tưởng của bệnh tà, lại cần phải chú ý đến sự thịnh suy của sức Chứng ( chứng trạng lâm sàng) để chỉ riêng chứng trạng như đau đầu phát sốt...
Chứng (chứng trạng tổng thể) để chỉ một nhóm chứng trạng đặc định, nó là bệnh lý, tổng hợp khái quát hiện tượng lâm sàng, và có thể để nâng lên làm nguyên tắc trị liệu, thực tế đó là chẩn đoán của Đông y. Như chứng "Đại trường thấp nhiệt" nó đã nói rõ vùng bệnh biến là đại trường, rồi đến bệnh ngoại tà là thấp nhiệt, đồng thời lại nêu hướng được nguyên tắc trị liệu phải sử dụng thanh lợi thấp nhiệt. Lại như "tỳ vị hư hàn" nó đã nói rõ vùng bệnh biến ở tỳ vị rồi đến nguyên nhân bệnh là hàn, chính khí ở nhân thể là hư nhược; đồng thời lại đã bỏ nêu hướng trị liệu phải lấy nguyên tắc ôn tỳ liền vị. Từ đó nhìn lại khái niệm "chứng" (chứng trạng tổng thể) thường là liên quan nguyên nhân bệnh, vùng bệnh biến, phản ứng cơ thể.
Làm thế nào mới có biện chứng rõ ràng và chuẩn xác( chữ chứng trong biện chứng là chứng trạng tổng thể). Đông y Thổng qua thực tiễn lâm sàng lâu dài, từng bước hình thành một lớp phương pháp biện chứng, chủ yếu là bao gồm bát cương biện chứng, tạng phủ biện chứng, vệ khí doanh huyết biện chứng. Trong số đó, bát cương . biện chứng là tổng cương, Thổng qua nó có thể khái quát nơi có bệnh biến, tính chất bệnh biến, tình trạng cơ thể đấu tranh với bệnh tật. Nếu như cần làm rõ thêm một bước đặc trạng của bệnh tình, lại phải trên cơ sở bát cương biện chứng, Thổng qua tạng phủ biện chứng hoặc vệ khí doanh huyết biện chứng để xác định thuộc tính của bệnh tà, ở một tạng phủ nào, và mức độ tổn hại của bệnh tà đối với cơ thể. Bởi vậy, mấy loại phương pháp biện chứng này cần bổ sung giúp nhau, chẩn đoán mới có thể tính là hoàn thiện.
“ Có so sánh mới có thể phân biệt rõ ”
Tiến hành biện chứng, không những nắm được từng chứng biểu hiện lâm sàng lại cần chú ý phân biệt rõ giữa chứng với chứng, như thế mới có thể làm ra chẩn đoán chính xác.
Bát cương biện chứng bao gồm biểu lý, hàn nhiệt, hàn thực, âm dương. Bát cương biện chứng đó là từ bốn đôi mâu thuẫn của tám mặt đã khái quát những đặc điểm khác nhau của bệnh tật. Lấy biểu lý để phân biệt nơi có bệnh biến. Lấy hàn nhiệt, hư thực để phân biệt tính chất của bệnh. Lại dùng âm dương để khái quát thêm.
Biểu và lý, hàn và nhiệt; hư và thực, âm và dương, đều có tính chất tương phản của hai mặt. Đem hai cái làm một nhóm so sánh phân biệt, có lợi cho nhận thức về đặc điểm tính chất khác nhau của bệnh tật.
Vận dụng lâm sàng của bát cương biện chứng đều theo thuận tự là:
Đầu tiên phân biệt biểu lý, tìm ra vùng bệnh biến; sau đó phân biệt hàn, nhiệt, hư, thực để phân rõ tính chất của bệnh biến; cuối cùng lại phân âm dương để khái quát chung. Biểu lý hàn, nhiệt, hư, thực ba đôi tuy có khác nhau về góc độ, đã nói rõ chứng của bệnh, nhưng nó lại là có quan hệ với nhau, bổ sung cho nhau, khi biện chứng không cần đem nó để đứng riêng ra mà xem.
Bát cương biện chứng là cơ sở của các loại biện chứng, là phương pháp biện chứng cần phải nắm đầu tiên. Dưới đây đem bát cương chia thành bốn nhóm đối tỷ nhau để giới thiệu.
1. Biểu và lý
Biểu và lý là chỉ :bệnh biến ở vùng nông hay sâu, và bệnh tình nặng hay nhẹ. Nhất loạt bệnh cơ biểu thuộc biểu, bệnh tình nhẹ và vùng bệnh ở nông. Bệnh ở tạng phủ thuộc lý, bệnh tình nặng và nơi có bệnh ở sâu.1 Biểu chứng:
Thường thấy ở thời kỳ đầu của bệnh ngoại cảm. Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là phát sốt sợ lạnh( hoặc sợ gió), đau đầu, tức chi quết đau, mũi tắc ho nhẹ, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch phù, trong đó có phát sốt, sợ lạnh, mạch phù là đặc trưng của biểu chứng.
Biểu chứng chia ra biểu hàn, biểu nhiệt, biểu hư, biểu thực. Ở trên vừa giới thiệu chứng trạng trong biểu chứng nói chung.
Nay nói kỹ hơn:
- Sợ lạnh nặng, phát sốt nhẹ và mạch phù khẩn là biểu hàn chứng, chữa thì dùng tân ôn giải biểu.
- Sợ lạnh nhẹ, phát sốt nặng, mạch phù sác gọi là biểu nhiệt chứng, chữa 'thì dùng tân lơng giải biểu.
- Biểu chứng không có mồ hôi, gọi là biểu thực, chữa thì dùng thuốc phái biểu rất mạnh.
Biểu chứng có nhiều mồ hôi gọi là biểu hư, không thể dùng quá nhiều thuốc phát biểu.
Người già, người thể yếu mà có biểu chứng, phải đồng thời với giải biểu là chú ý phù chính.
2. Lý chứng:
Thường thấy ở thời kỳ giữa và thời kỳ cực thịnh của các loại ngoại cảm, lúc đó biểu chứng đã giải, bệnh tà chuyển vào lý, chồng lên đến tạng phủ. Mặt khác, các loại bệnh nội thương đều là lý chứng. Biểu hiện lâm sàng của lý chứng là nhiều loại nhiều dạng, không những có các phần hàn, nhiệt, hư thực mà còn do các tạng phủ khác nhau dẫn đến, biểu hiện cụ thể của cái đã đem trình bày trong tạng phủ biện chứng luận trị và ôn nhiệt bệnh biện chứng luận trị.
Lý chứng nhất loạt không sợ gió, không sợ lạnh, mạch tượng nhất loạt là mạch.trầm, chất lưỡi thường có cải biến, rêu lưỡi thường vàng hoặc đen.
Như mới bắt đầu viêm phổi, có các chứng sợ lạnh phát sốt, đau đầu, đau mình, mạch phù sác, thuộc về biểu chứng . Nếu bệnh tình phát triển, người bệnh xuất hiện sốt cao mặt đỏ, không sợ lạnh, miệng khát, ngực đau, ho dữ dội, mửa ra đờm có màu dì sắt, vật vã (phiền thao), lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng, mạch hồng sác là chứng của phế nhiệt, đó là thuộc lý chứng.
Lý chứng không những có lý hàn, lý nhiệt, lý hư, lý thực mà khi bệnh biến phức tạp, lại cần phân riêng ra hư hàn, hàn thực, hư nhiệt, thực nhiệt. Cái đó ở các chương dưới có chia ra trình bày rõ .
Ngoài ra, bệnh không ở tại biểu, cũng không ở lý, nằm gọn giữa biểu và lý, gọi là bán biểu bán lý chứng. Chứng trạng chủ yếu của nó là hàn nhiệt vãng lai. Chữa thì dùng phép hoà giải.
3. Biểu lý đồng bệnh:
Biểu và lý có khi cùng bị bệnh một lúc. Như thời kỳ đầu của chứng cấp tính khuẩn lỵ, đã có đau bụng, đại tiện mủ máu, miệng khát, rêu lưỡi vàng trắng là chứng trạng của lý chứng, lại có sợ lạnh phát sốt, tứ chi buốt đau, mạch phù sác là chứng trạng của biểu chứng, đó gọi là biểu lý đồng bệnh. Biểu lý đồng bệnh thường thấy ở hai loại hình. Một là, bệnh ngoại cảm mà biểu chứng chưa giải tà đã chuyển vào lý; Hai là vốn có bệnh nội thương lại mới bị bệnh ngoại cảm. Cái trước nên giải cả biểu và lý một lúc (song giải). Cái sau, trị trước bệnh ngoại cảm mới mắc.
Yếu điểm để phân biệt biểu chứng và lý chứng. Nhất loạt bệnh sốt chủ yếu phải phân biệt rõ phát sốt là không kèm hay có kèm sợ lạnh, chất lưỡi là nhạt hay hồng, mạch tợng là phù hay trầm. Phát sốt sợ lạnh, lưỡi nhạt líu lưỡi trắng, mạch phù, thuộc biểu chứng. Phát sốt không sợ lạnh, lưỡi hồng rêu lưỡi vàng, mạch trầm (hoặc sác), thuộc lý chứng.
II. HÀN VÀ NHIỆT
Hàn và nhiệt là chỉ về tính chất của bệnh tật "dương thắng thì nhiệt", "âm thắng thì hàn". Hàn, nhiệt, trên thực chất là biểu hiện cụ thể của âm dương thiên thịnh, thiên suy. Bởi thế, phân biệt hàn, nhiệt của bệnh tật có thể đem lại chỗ dựa cho việc dùng thuốc ôn nhiệt hay hàn lương.
1. Hàn chứng:
Có chia riêng ra biểu hàn và lý hàn, ở đây chủ yếu là giới thiệu lý hàn chứng. Biểu hiện chủ yếu của nó là sợ lạnh, chân tay lạnh như băng, miệng nhạt không khát, thích uống nóng, tiểu tiện.trong mà dài, đại tiện lỏng'nhão, sắc mặt trắng xanh(trắng bủng), chất lưỡi trắng nhạt, rêu lưỡi trắng nhuận hoặc đen nhuận, mạch tượng trầm trì. Như có một số ít người bệnh có bệnh mạn tính tiêu hao, thường thường xuất hiện chứng loại này. Khi chữa cần dùng phép khử hàn.
2. Nhiệt chứng:
Có chia ra biểu nhiệt và lý nhiệt, ở đây chủ yếu là giới thiệu chứng lý nhiệt. Biểu hiện chủ yếu của nó là phát sốt, sợ nóng, vật vã, miệng khát, a uống lạnh, nước tiểu ngắn đỏ, đại tiện bí kết, sắc mặt hồng, chất lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng khô hoặc đen khô mạch sác. Các loại bệnh nhiệt tính thường có xuất hiện chứng trạng loại này. Chữa thì dùng phép thanh nhiệt.
3. Hàn nhiệt lẫn lộn:
Là hàn chứng và nhiệt chứng cùng xuất hiện một lúc, ví dụ như sợ lạnh phát nóng, không có mồ hôi, đau đầu đau mình, khí suyễn vật vã, miệng khát, lời hồng rêu lưỡi vàng trắng, mạch phù khẩn, gọi là biểu hàn lý nhiệt. Ngoài ra còn có biểu nhiệt lý hàn, Thượng nhiệt hạ hàn, hạ nhiệt Thượng hàn.
Ví dụ: Như phát sốt, đau đầu, ho hắng có đờm vàng, họng khô mà bụng trướng, đại tiện phân nát, là biểu nhiệt lý hàn (có thể thấy ở người bệnh trường vị hư hàn mà gặp nạn ngoại cảm phong nhiệt). Như đầu đau, mắt đỏ, hoặc đau răng miệng có mụn mà bụng dưới lạnh đau là Thượng nhiệt hạ hàn (có thể thấy ở người bệnh hạ tiêu hư hàn mà tâm vị có nhiệt). Như dạ dày đau, ợ hơi, ợ chua, miệng nhạt, ăn uống không biết ngon mà tiểu tiện nhiều lần rít đau. là Thượng hàn hạ nhiệt (có thể thấy ở người bệnh vị hàn mà hạ tiêu có thấp nhiệt).
4. Hàn nhiệt chân giả:
Trên lâm sàng rất thường gặp đến một số bản chất là nhiệt chứng, mà biểu hiện là tượng hàn, hoặc bản chất là hàn chứng mà biểu hiện tình trạng là tợng nhiệt, đó gọi là chân nhiệt giả hàn hoặc chân hàn giả nhiệt. Nếu như không tìm ra được bản chất, sẽ bị hiện tượng giả mê hoặc, mà đến chẩn lầm trị lầm.
Ví dụ như bệnh sởi của trẻ nhỏ. về nốt chẩn ở da, khi sởi mọc không ra. hoặc chẩn ra không thú, biểu hiện tình trạng mời phần khốn quẫn, lời nói, lời động, chân tay phát mát lạnh sắc mặt phát xanh, mạch trầm tế mà sác, xem thoảng qua dễ cho là tượng của chứng hàn. Có thể miệng mũi đứa trẻ có bệnh ấy thở hơi ra nóng. ngực bụng nóng như thiêu đốt, miệng hôi, miệng khái hay uống, a mát, chất lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng mà khô, mạch trầm tế sác mà có sức, mới có thể thấy bản chất là nhiệt chứng. Đông y cho rằng tà nhiệt uất ở trong càng sâu, ở đầu chót chi thể càng mát, tức là nói "nhiệt sâu quyết cũng sâu'’. Chứng đó là chân nhiệt giả hàn, ở trong bệnh nhiệt tính, khi vòng tuần hoàn không tốt, thường thấy như thế. Chữa thì phải dùng thuốc hàn lơng để thanh nhiệt giải độc.
Lại như người có bệnh mạn tính tiêu hao tự thấy thân mình nóng, và có ửng hồng hai gò má về chiều, vật vã, rêu lưỡi đen, mạch phù đại, bề mặt nhìn thấy có hiện tợng nhiệt.
Nhưng người bệnh thích ăn uống nóng, thường mặc nhiều áo, nằm co lại, chất lưỡi trắng nhạt, rêu lưỡi đen mà ẩm, mềm mại, mạch tuy phù đại nhưng không có sức, có thể thấy bản chất vẫn thuộc hàn chứng, cho nên gọi là chân hàn giả nhiệt.
Chữa thì phải dùng thuốc nóng ấm để ôn dương tán hàn.
Điểm chủ yếu để phân biệt nhiệt chứng và hàn chứng. Chủ yếu là phân biệt rõ miệng có khát hay không, a hay sợ nóng và lạnh, và các tình hình biến hoá của đại tiểu tiện, sắc mặt, hình ảnh lời, tượng của mạch.
- Miệng nhại không khát, thích uống nóng, tiểu tiện trong và dài, đại tiện lỏng nhão, sắc mặt trắng xanh, lưỡi nhạt rêu trắng nhuận, mạch trì, thuộc hàn. Miệng khát a uống mát, tiểu tiện ngắn đỏ, đại tiện khô kết, sắc mặt hồng, lời hồng rêu vàng mà khô, mạch sác, thuộc nhiệt.
Ngoài ra, không cần đem thân nhiệt cao làm ngang bằng với nhiệt chứng. Nhiệt chứng là chỉ một nhóm chứng trạng của hiện tợng nhiệt, thân nhiệt lên cao chỉ là một hạng trong đó Có khi thân nhiệt lên cao không nhất định đều là nhiệt chứng, nhiệt chứng lại không nhất định là phải thân nhiệt lên cao.
Ví dụ: như chứng biểu hàn, thân nhiệt của người bệnh tuy cao những do có sợ lạnh nhiều, miệng không khát, rêu lưỡi trắng nhuận, là hàn tượng, cho nên vẫn chẩn đoán là chứng hàn. Lại nh'lý nhiệt chứng, người bệnh tuy thân nhiệt không cao, nhưng có miệng khát, tiện bí, mặt hồng, lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng mà khô là hiện tượng nhiệt, vẫn có thể chẩn đoán là chứng nhiệt.
Khi hàn nhiệt cùng thấy hoặc hàn nhiệt chân giả khó phân biệt, thường thuộc bệnh tình phức tạp, trên chẩn đoán ngoài việc phải chú ý đến chứng, mạch, lưỡi, lại cần phải tham khảo bệnh sử trong quá khứ của người bệnh, để tiện Thông suốt qua hiện tợng tìm tới bản chất, làm rõ chủ thứ của hàn nhiệt và chân giả, tiến hành chữa chính xác.
III. HƯ VÀ THỰC.
Hư, thực là Chỉ Sự thịnh suy của chính, tà. Nhất loạt mà nói, hư là chỉ chính khí của thân người bất túc (không đủ), sức đề kháng giảm yếu. Thực là chỉ bệnh đến mức tà Khí thịnh và tà chính tranh nhau rất mạnh.
1. Hư chứng:
Thường phát sinh ở sau khi bệnh nặng, bệnh lâu dài, thân thể hư yếu, chính khí bất túc. Biểu hiện chủ yếu là sắc mặt trắng bủng (trắng có xanh rêu), tinh thần uỷ mị, mệt mỏi thiếu sức, tim hồi hộp và ngắn hơi, tự ra mồ hôi, mồ hôi trộm, lưỡi non không rêu, mạch tế nhợc vô lực. Chữa thì dùng phép bổ.br
Hư chứng có âm hư (hư nhiệt), dương hư (hư hàn), khí hư, huyết hư, ngũ tạng .
2. Thực chứng:
Nhất loạt thực chứng thường thuộc mới dấy bệnh, thế bệnh rất dữ. Đó là do một mặt tà Khí thịnh (như ngoại cảm tà thịnh, đàm ẩm thuỷ thấp đình lưu, Khí trệ, huyết ứ, tích thực, tích trùng...), một mặt nữa là do sức cơ năng đề kháng của cơ thể vượng thịnh, kết quả của hai mặt tà chính đấu tranh dữ dội.
Đặc điểm lâm sàng của thực chứng là quá trình bệnh nhất loạt rất ngắn, phản ứng của cơ thể rất mạnh, tinh thần căng phấn, tiếng cao, Khí thổ, hoặc sốt cao mặt đỏ, hoặc không sốt mà mặt xanh, hoặc đờm đãi toả thịnh (vậy mạnh), hoặc đau dữ sợ sờ nắn... rêu lưỡi rất đầy, mạch hồng có sức.
Thực chứng cũng cần chia ra hàn nhiệt
- Như sưng phổi có mủ, phát sốt miệng khát, hen ho đau ngực, mủ và đờm vớng đầy, lời hồng, rêu lưỡi vàng dầy, mạch hoạt, sác, hữu lực, là lý nhiệt thực chứng.
Chữa thì dùng phương thuốc thanh nhiệt lả phế.
- Lại như co thắt ruột, người bệnh có phát thành cơn rất đau ở vùng bụng, quằn quại rên rỉ, tiếng cao, Khí thổ, mặt xanh, chi lạnh, rêu lưỡi trắng dầy. mạch trầm, khẩn.thuốc ôn trung tán hàn.
3. Hư thực hiệp tạp:
Trên lâm sàng thường có trong hư hiệp thực, trong thực có hư, tình hình hư chứng và thực chứng cùng tồn tại.
Như người bệnh gan xơ hoá bụng có nước, toàn thân gày mòn, thiếu máu, mỏi mệt không có sức, ăn uống giảm, vốn thuộc hư chứng; nhưng lại đồng thời tồn tại nhiều nước ở trong bụng, kiêm có hối hòn, sườn bụng đau đớn là chứng trạng của thực chứng Bởi thế nó mà mộ chứng hư thực hiệp tạp. Chữa thì dùng phương pháp công bổ kiêm thí, hoặc trước
4. Hư thực chân giả:
Bản chất của bệnh tật là hư chứng .mà biểu hiện lâm sàng có hình ảnh của thực chứng, gọi tà giả thực. Giả thực nhất loạt biểu hiện là tuy có bụng trướng, nhưng không giống như thường đó của thực chứng xướng mà không giảm, mà là lúc trướng lúc giảm; tuy có đau bụng nhưng không giống kiêu đau của thực chứng sợ sờ nắn, mà là sờ nắn thì giảm đau; tuy có tượng nhiệt, nhưng mà lưỡi non, mạch hư. Bản chất của bệnh là thực chứng mà biểu hiện sàng có hình ảnh của hư chứng, gọi là giả hư. Giả hư nhất loạt biểu hiện là tuy có chán chán không nói, nhưng đã nói thì nhiều lời, tiếng cao, khí thô; tuy không muốn ăn nhưng có lúc lại ăn được, tuy có ngực bụng chướng đầy, nhưng sờ nắn đó có đau hoặc cố định không dời chỗ đau .
Yếu điểm để phân biệt hư chứng thực và thực chứng là: Chủ yếu xem ở mấy mặt quá trình bệnh dài hay ngắn, thanh âm và hơi thở mạnh hay yếu, nơi đau sợ sờ nắn hay a sờ nắn, chất lưỡi Thổ già hay béo non, mạch tợng có sức hay không có sức.
Nhất loạt bệnh trình ngắn, tiếng cao, Khí thổ, nơi đau sợ sờ nắn, chất lưỡi Thổ già, mạch có sức, thuộc thực chứng. Bệnh trình dài. tiếng thấp, khí ngắn, nơi đau sợ sờ nắn, chất lưỡi béo non, mạch không có sức, thuộc hư chứng.
IV. ÂM VÀ DƯƠNG:
Biểu và lý, hàn và nhiệt, hư và thực, nhất loạt có thể dùng hai cơng (hai đầu mối) âm dương khái quát lại thêm, tức là biểu, nhiệt, thực, thuộc dương chứng, lý, hư, hàn, thuộc âm chứng.
Bởi thế, âm dương là hai tổng cơng của bát cơng. Nhất loạt bệnh chứng, đều có thể quy nạp vào hai loại lớn là âm chứng và dương chứng.
1. Âm chứng:
Nhất loạt biểu hiện tinh thần uỷ mị, sắc mặt tối mờ, thân hàn chi lạnh, nằm ưa co quắp, ngắn hơi ngại nói, tiếng nồi thấp nhỏ, ưa sự yên lặng, không khát hoặc ưa uống nước nóng, bụng đau ưa sờ nắn, đại tiện lỏng nhão, tiểu tiện lỏng trong, chất lưỡi nhạt non, rêu lưỡi nhuận hoạt, mạch tượng thường trầm, trì, tế, nhược.
2. Dương chứng:
Nhất loạt biểu hiện tinh thần căng phấn, sắc mặt phát hồng, thân nóng chi ấm, nằm thìa dạng duỗi, khí khô nói nhiều, tiếng nói to vang, hay động, miệng khát hoặc ưa uống mát, bụng đau sợ sờ nắn, đại tiện khô kết, tiểu tiện ngắn đỏ' chất lưỡi hồng tía, rắn, già, rêu lưỡi vàng, táo, mạch tượng thường hồng sác, có sức.
3. âm hư:
Là chỉ về âm phần bất túc, "âm h sinh nội nhiệt". Thường nói hư nhiệt tức là chỉ về cái đó, biểu hiện chủ yếu là lòng bàn tay bàn chân nóng, siết về chiều sau ngọ, gảy mòn, mồ hôi trộm, miệng táo họng khô, tiểu tiện ngắn đỏ, đại tiện khô mà ít, chất lưỡi hồng, lưỡi ít rêu hoặc không rêu, mạch tế, sác vô lực là chứng của hư nhiệt, có thể thấy ở chứng lao phổi và bệnh mạn tính tiêu hao.
4. Dương hư:
Là chỉ về dương khí bất túc. Dương hư thì sinh hàn. Nhất loạt hư hàn mà nói là chỉ về thứ đó, biểu hiện chủ yếu của nó là mệt mỏi không có sức, ít hơi ngại nới, sợ rét chân tay lạnh, tự ra mồ hôi, sắc mặt trắng xanh, nước tiểu trong mà dài, phân nát, lỏng, chất lưỡi nhạt, non, rêu lưỡi trắng, mạch trì, nhược, hoặc đại mà vô lực, là chứng hư hàn. Thường thấy ở người công năng cơ thể suy thoái, các bệnh tật cơ sở thay cũ đổi mới (đái tạ) giảm thấp và người già thể yếu.
Ngoài ra, lại có hai loại vong âm, vong dương, là chỉ về sốt cao ra nhiều mồ hôi, nôn mửa, ỉa chảy dữ dội, mất nước quá nhiều, là tình huống âm dịch hoặc dương khí mất đi nhanh chóng một số lượng lớn, xuất hiện chứng nguy nặng. Lúc này phải kịp thời chẩn đoán chính xác, tích cực tiến hành cấp c
Vong âm và vong dương, ngoài những chứng nguy nặng của các loại bệnh nguyên phát tính, chúng có những đặc điểm khác nhau nh sau: vong âm: Biểu hiện chủ yếu là mồ hôi nóng, nước bọt mặn không dính, tứ chi ấm nóng, hơi thở rất Thổ, miệng khát ham uống, sắc mặt về chiều ửng hồng lên, lưỡi hồng khô, mạch hư, đại, sác mà vô lực.
- Vong dương: Biểu hiện chủ yếu là mồ hôi lạnh, nước bọt nhạt mà dính, đầm đề không dứt, tứ chi quyết lãnh, hơi thở nhỏ yếu, miệng không khát, sắc mặt đen, trắng, mạch nhỏ muốn mất.
Căn cứ vào quan sát lâm sàng, nhiều mồ hôi,mửa nhiều thì có thể xuất hiện vong âm, cũng có thể xuất hiện vong dương.
Nhiệt bệnh thương âm hoặc xuất huyết nhiều có thể dẫn đến vong âm. Hàn tà thơng dương (cảm lạnh làm hại dương khi) có thể dẫn đến vong dương. Do âm dương hỗ căn giúp nhau từ gốc), vong âm có thể dẫn đến vong dương, vong dương có thể đẫn đến vong âm, nhưng mỗi cái đều có nét riêng về chủ thứ, nặng nhẹ. Nhất loại mà nói, vong âm dẫn đến vong dương là rất thường thấy. Trị liệu, vong âm phải nhanh chóng dùng phép cứu âm sinh tân, vong dương phải dùng ngay phép hồi dương cứu nghịch.
TÓM TẮT BÀI BÁT CƯƠNG BIỆN CHỨNG
Bát cương biện chứng là từ tám mặt khác nhau của bệnh tật tiến hành một loại phương pháp chẩn đoán phân biệt. Tuy nhiên, nó lại cần đến sự kết hợp với tạng phủ biện chứng mới có thể hướng tới hoàn thiện, nhưng nó là cơ sở của các loại biện chứng, đia đền tác dụng giữ cái giản bỏ cái rờm, nâng lên mức tóm gọn chung làm đầu mối.
Mỗi một chứng trong bát cơng đều là khả biến, dựa theo những điều kiện nhất định mà biến hoá. Nhất loạt biểu chứng chuyển vào lý là bệnh thế nặng thêm, lý chứng ra biểu là bệnh thế hướng về khỏi. Nhiệt chứng biến thành hàn, thực chứng biến thành hư là chính khí đã suy. Hàn chứng biến nhiệt, hư chứng biến thực là dương khí dần dần hồi phục.
Chứng thường thấy ở lâm sàng, rất ít khi là đơn thuần, thường là biểu lý, hàn nhiệt, h thực, kết hợp lại làm một, mà lại còn có lúc gặp xuất hiện lẫn lộn và giả tượng, do đó yêu cầu chúng ta trong quá trình biện chứng phải nhìn đúng chỗ điều tra nghiên cứu nối suất lại tiến hành suy xét, tập trung sức sớm ra mâu thuẫn chủ yếu. Chỉ có như thế mới có thể có được kết luận chính xác Không thì sẽ không thể có được chỗ bám trong phân tích.
Cơ sở sinh lý, bệnh lý có liên quan với bát cơng là cần phải nghiên cứu từng bước. Nhất loạt cho rằng biểu chứng thường thấy ở thời kỳ đầu của bệnh viêm nhiễm, là một loại phản ứng, phòng ngự của cơ thể với nhân tố bệnh; lý chứng thường thấy ở 'thời kỳ giữa và thời kỳ cực điểm của bệnh tật viêm nhiễm, cũng có thấy ở trong bệnh khí chất hoặc công năng tổn hại không có tính viêm nhiễm, là kết quả của nhân tố bệnh xâm lấn vào công năng tổ chức khí quan nội tạng. Thường lấy công năng của hệ thống thần kinh trung khu và khí quan hữu quan cùng với năng lượng thay cũ đổi mới bị trở ngại nghiêm trọng làm đặc trưng.
Nếu như trong quá trình bệnh, khi biểu chứng chưa mất đi hết, mà đã xuất hiện chứng trạng tạng phủ tổn hại, sẽ gọi là biểu lý đồng bệnh. Nhiệt chứng thường cho là vì công năng sinh lý của cơ thể con người vượng thịnh, năng lượng thay thế tăng cao, có quan hệ với phản ứng càng tiến (cường) với nhân tố bệnh, bởi thế biểu hiện là sản ra nhiệt quá thịnh, thân nhiệt tăng cao, hô hấp nhanh, sức đẩy ra của tim tăng nhanh, huyết quản ở da trương giãn ra, máy chạy thêm nhanh, tăng cao hng phấn vỏ não, cùng với sốt cao ra mồ hôi... mà hiện ra rõ chứng mất dịch.
Hàn chứng, thường cho là vì công năng sinh lý của cơ thể người ta giảm lùi, năng lượng thay thế xuống thấp, có quan hệ với tính phản ứng với nhân tố bệnh giảm thấp, bởi thế biểu hiện là sản nhiệt không đủ, thân nhiệt rất thấp, hô hấp và tim đập rất thậm, sức đẩy ra của tâm giảm, huyết quản ở bề mặt thân thể co lại, chứng vỏ não hưng phấn giảm xuống thấp. Hư chứng, nhất loạt chỉ về sức đề kháng của cơ thể giảm xuống thấp công năng sinh lý giảm hoặc suy kiệt mà xuất hiện chứng trạng bệnh lý, như công năng trường vị trở ngại, sa nội tạng, công năng tuyến giáp trạng giảm.
Thực chứng, nhất loạt chỉ về tính phản ứng của cơ thể mạnh, công năng của tổ chức khí quan cang tiến đến trạng thái bệnh lý, như các loại viêm nhiễm, u bướu , tích dịch ở ổ ngực bụng, thũng huyết, thũng mủ và các loại bệnh lý hữu hình thay đổi. Có một số vấn đề phải để lại chúng ta từ nay về sau thảo luận sâu hơn nữa.
PHỤ LỤC
BẢNG BÁT CƯƠNG BIỆN CHÚNG YẾU ĐIỂM
Bảng 17
Bát cương |
Biểu hiện chủ yếu |
Tượng lưỡi |
Tượng mạch |
Tri pháp |
Bị chú |
Biểu chứng |
Phát sốt, sợ gió, lạnh |
Rêu trắng mỏng |
Phù |
Giải biểu |
|
Lý chứng |
Không có biểu chứng, có chứng trạng bệnh biến tạng phủ, biểu hiện đó
tuỳ hàn nhiệt, hư thực khác nhau mà dẫn |
Có biến hoá |
Không phù |
Tuỳ tạng phủ hàn nhiệt, hư thực khác nhau mà dẫn |
|
Hàn chứng |
Sợ lạnh, chân tay lạnh, miệng nhạt, không khát, ưa uống nóng, nước
tiểu trong mà dài, đại tiện lỏng nhão, sắc mặt trắng bủng |
Chất nhạt, rêu trắng nhuận hoặc đen ẩm |
Trì hoặc khuẩn |
Khử hàn |
|
Nhiệt chứng |
Sợ nóng, phát sốt cao, miệng khát, ưa uống lạnh, vật vã, tiểu tiện
ngắn đỏ, đại tiện bí kết, sắc mặt hồng. |
Chất hồng, rên vàng khô hoặc vàng đen khô |
Sác |
Thanh nhiệt |
|
Hư chứng |
Thân thể hư yếu, có các loại biểu hiện: sắc mặt trắng nhợt, tinh
thần uỷ mị hoặc mệt không có sức, tim thổn thức, ngắn hơi, tự ra mồ
hôi, mồ hôi trộm |
Chất nhạt non, ít rêu hoặc không rêu |
Vô lực
(hư) |
Bổ ích |
Tiến lên chia rõ khí hư, huyết hư, âm hư, dương hư, tạng phủ hư |
Thực chứng |
Cơ thể phản ứng mạnh, tinh thần càng tiến, tiếng cao, khí thô, hoặc
sốt cao, mắt đỏ, hoặc không sốt mặt xanh, hoặc bụng rất đau sợ sờ
nắn… |
Chất thô, rêu dầy |
Hữu lực
(thực) |
Công trục, tiêu tán, tả hạ |
|
âm chứng |
Sắc mặt ảm đạm, thân mệt chi lạnh, ngắn hơi lười nói, nước tiểu
trong phân nát |
Chất nhạt rêu trắng nhuận |
Trầm trì tế nhược |
ôn bổ |
|
Dương chứng |
Mặt đỏ, mình nóng, thần phiền, khí thô, miệng khát, ưa uống mát,
nước tiểu đỏ, bí đại tiện |
Chất hồng rêu vàng dầy |
Hồng đại hoạt sác |
Thanh nhiệt, tả hạ |
|
|