Bệnh đái đường là do công năng ở đảo tuỵ giảm lùi mà dẫn đến đại tạ hydrat
cacbon tán loạn. Đặc trưng đó là đường trong máu quá cao và xuất hiện đái
đường. Căn cứ vào biểu hiện lâm sàng, thuộc về phạm trù bệnh "tiêu khát" ở Đông
y. Do ở ham uống rượu và ăn đồ ăn béo ngọt, hoặc thể chất thận hư, từ đó mà
hình thành âm hư và biến hoá bệnh lý táo nhiệt, hai cái đó giúp làm nhân quả,
hun tiêu tân dịch phế vị và âm tinh của thận. Nếu bệnh kéo dài ngày, âm thương
tới dương, thường thường dẫn tới thận dương cũng hư.
ĐIỂM CẦN KIỂM TRA ĐỂ CHẨN ĐOÁN
1. Ba chứng trạng nhiều là: ăn nhiều, uống nhiều và đái nhiều, mỗi ngày lượng
nước tiểu nhiều có thể đạt tới 10 lít trở lên. Thân thể ngày càng gầy mòn.
2. Thực nghiệm đường tiết niệu hiện rõ dương tính. Nếu có điều kiện có thể trắc
định đường huyết. Đường huyết vòm bụng vợt quá 130mg%, sau khi ăn đường huyết
vượt qua 170mg%, có thể giúp thêm chẩn đoán.
3. Nếu có chán ăn, nôn mửa, đau bụng, trong miệng có hơi mùi quả bình (axeton),
phải nghĩ đến khả năng trúng độc axeton. Nặng thì có thể xuất hiện hôn mê, thở
hít sâu và nhanh, huyết áp xuống thấp, chi lạnh, mất phản xạ. Nước tiểu dấm đồng
hiện rõ dương tính.
4. Thường dễ phát kèm chứng bệnh lao phổi, huyết áp cao, xơ hoá động mạch,
thường phát sinh mụn nhọt và đục nhân mắt.
PHƯƠNG PHÁP CHỮA
1 . Biện chứng thí trị.
Do bệnh lý của bệnh này chủ yếu là âm hư, táo nhiệt, mà trọng điểm của âm hư ở
thận, bản chất của táo nhiệt thuộc âm hư, cho nên trị liệu phải lấy dưỡng thận
âm, thanh nhiệt nhuận táo làm chủ. Lại phải phân biệt chủ thứ của ba chứng trạng
ba nhiều, căn cứ vào đặc điểm khác nhau, uống nhiều là thượng tiêu, ăn nhiều là
trung tiêu đái nhiều là hạ tiêu, tiến hành xử lý.
Cách chữa:
Tư âm thanh nhiệt, sinh tân nhuận táo.
Bài thuốc ví dụ: Lục vị địa hoàng thang gia giảm.
Sinh địa 5 đồng cân, Hoài Sơn dược 5 đồng cân,
Sơn thù nhục
3 đồng cân, Đan bì 3 đồng cân,
Mạch đông
3 đồng cân, Thiên hoa phấn 3 đồng cân,
Thạch hộc
5 đồng cân.
Gia giảm:
+ Phiền khát uống nhiều, rêu lưỡi vàng, chất lưỡi hồng, gia Thạch cao 1
lạng, Tri mẫu 4 đồng cân.
+ Ăn nhiều mau đói, rêu lưỡi vàng táo, gia Hoàng liên 1 đồng cân, Sao
Hoàng cầm 3 đồng cân. Nếu tiện bí, mạch hoạt sác có sức, có thể bỏ Sơn
thù nhục, Sơn dược; tạm thêm Đại hoàng 3 đồng cân, Mang tiêu
3 đồng cân.
+ Đái nhiều như cao mỡ, thêm chừng Ổi ích trí nhân 3 đồng cân, Tang
phiêu tiêu 3 đồng cân, Ngũ vị tử 1,5 đồng cân, Phúc bồn tử 5
đồng cân.
+ Thận dương hư, sắc mặt trắng bợt, đầu vận, dương suy, chất lưỡi trắng nhạt,
mạch tế, bỏ Thiên hoa phấn, Thạch hộc thêm chừng Chê'phụ tử 1,5-3
đồng cân, Nhục quế 6 phân (bỏ vào sau). Tiên linh tỳ 3 đồng cân,
Thỏ ti tử 3 đồng cân, Lộc giác sương 3 đồng cân.
+ Khí hư, sắc mặt vàng úa, mệt mỏi ngắn hơi, tự ra mồ hôi, rêu lưỡi mỏng, chất
lưỡi hồng nhạt, mạch tế nhuyễn, bỏ Đan bì, Thiên hoa phấn, thêm Đảng
sâm 3 đồng cân, Hoàng kỳ 3 đồng cân, Bạch truật 3 đồng cân.
+ Ngoài đó ra, khi có xuất hiện chứng phát kèm, dựa vào các chứng tiến hành xử
lý: Khi có trúng độc đồng, phải kết hợp Đông Tây y tiến hành chữa.
2. Khống chế ăn uống.
Người lớn chứng nhẹ lại không có hợp với chứng phát kèm, có thể dùng riêng phép
chữa bằng ăn uống, mỗi ngày ăn chủ là (gạo, miến hoặc các loại ngũ cốc) nói
chung hạn chế ở 6-8 lạng ta, trong bữa ăn thêm thích đáng chất anbumin, nhưng
phải tránh ăn quả họ dưa, đồ ăn chứa rất nhiều đường. Nếu người bệnh cảm thấy
ăn không no, có thể thêm rau mỗi bữa ăn nửa cân đến 1 cân ta.
3. Phương lẻ.
a. Vỏ cây thông lớp thứ 2 (khô) 2 lạng, (cây tùng lớn già là tốt),
xương lợn nấu nhừ uống trong, mỗi ngày 1 tễ.
b. Tủy lợn, sấy khô nghiền bột, mỗi lần uống 1-1,5 đồng cân, một ngày 3
lần uống.
c. Ngọc mễ tu 5 đồng cân, sắc thang uống thay nước chè, mỗi ngày 1 tễ
d. Tổ kén tằm (tằm giàng) 10 cái, sắc thang uống thay nước chè, mỗi ngày
1 tễ.
4. Phép chữa mới.
Liệu pháp kích thích thần kinh: Dùng 7 cây kim thép cố định ở một đầu chót một
cái đũa tre, gõ kích thích da ở hai bên cột sống, trọng điểm là chỗ đốt Đ.7-
Đ.l0, cách ngày 1 lần, mỗi lần 3-5 phút.
5. Châm cứu.
a. Thể châm:
+ Uống nhiều: Phế du, Thiếu thương, Ngư tế.
+ ăn nhiều : Vị du, Tỳ du, Trung quản, Túc tam lý.
+ Đái nhiều: Thận du, Quan nguyên, Phục lưu, Thuỷ Tuyền.
+ Nếu có xuất hiện chứng trúng độc đồng: Lấy Nhân trung, Nội Quan, Túc tam lý,
Dũng tuyền.
b. Nhĩ châm.
+ Uống nhiều: Nội phân bí, Phế, Khát điểm
+ ăn nhiều: Nội phân bí, Vị.
+ Đái nhiều: Nội phân bí, Thận, Bàng quang
THAM KHẢO BỆNH HỌC TÂY Y
Bệnh đái đường là một bệnh rất phổ biến ở các nước âu - mỹ, thành một bệnh xã
hội, chiếm 1% đến 2% nhân số cho nên ở các nước đấy bệnh này chiếm hẳn một khoa
chuyên môn (Diabétologie). Hiện nay, trong điều trị ngoài Insulin ra, khoa học
còn tìm ra một thứ thuốc mới: Sunfamid chống bệnh đái đường.
Nhờ sự định lượng Insulin trong máu, người ta đang xem xét lại toàn bộ quan
niệm về bệnh đái đường và đã giúp phân loại hội chứng đái đường, chỉ định sử
dụng insulin một cách rõ ràng hơn.
Ở nước ta, bệnh này tương đối ít hơn, có lẽ chưa phát hiện ra vì việc tìm
đường trong nước tiểu, việc đo đường - máu không thành thủ tục.
Nếu các xét nghiệm đó được nhất loạt làm cho mọi người, chúng tôi chắc chắn rằng
số người mắc bệnh đái đường sẽ có nhiều hơn. Một số đặc điểm về bệnh này ở nước
ta là sự điều trị khó khăn vì căn bản nhân dân ta ăn cơm.
Đái đường là một bệnh toàn thể do sự rối loạn về chuyển hoá chất gluxit, do sự
mất điều chỉnh của các tuyến nội tiết và thần kinh.
1. Triệu chứng.
a. Ba triệu chứng lâm sàng.
Ăn nhiều, uống nhiều, đái nhiều.
b. Hai triệu chứng xét nghiệm:
Sự hiện diện của đường trong nước tiểu.
Đường-máu tăng: Trên 150mg/dl (lấy lúc bệnh nhân đói).
Nhưng phần nhiều bệnh nhân đến bệnh viện vì các biến chứng.
2. Biến chứng.
a. Địa phương.
Ngoài da: Ngứa ngáy, eczêma, mụn nhọt, loét.
Nội tạng: Bệnh mắt (đục nhân mắt thường nhất), mồm, phổi, tim, thần kinh.
b. Toàn thể
Gầy nhanh.
Hôn mê đột ngột.
3. Nguyên nhân:
Nhiều cơ quan nội tiết phối hợp, liên kết với nhau để điều chỉnh đường - máu, để
chuyển hoá chất gluxit. Các cơ quan nội tiết đó bị tổn thương, hoặc thực thể ,
hoặc cơ năng, sẽ phát sinh ra bệnh đái đường. Do đó, nguyên nhân của đái đường
có thể từ:
Tuyến yên: Bệnh to cực: bệnh Cớt - xinh (Cushing) tuyến yên
Tuyến thượng thận. Bệnh Cớt-xinh do u tuyến thượng thận, do tiêm thuốc ACTH.
Tuyến giáp trạng: Bệnh Ba-zơ-đô (Basedow).
Tuyến tụy tạng: Viêm tụy tạng, u tụy tạng, tổn thương của đảo Langehan.
4. Cơ chế sinh bệnh
Bệnh đái đường do sự rối loạn về sử dụng chất gluxit: Chất gluxit không được
tiêu thụ hết đã tăng lên trong máu
Chúng ta biết rằng sự điều chỉnh đường máu do hai hệ thống:
Hệ thống tăng đường máu:
Tuyến yên, tuyến giáp trạng, tuyến thượng thận
Hệ thống hạ đường máu tuỵ tạng do chất Insulin
Ngoài ra sự chuyển hoá chất gluxit đòi hỏi tác dụng của một men: hexokiaza.
Giữa hexokinaza và hai hệ thống điều chỉnh đường máu có liên hệ chặt chẽ với
nhau.
Hệ thống tăng đường máu kìm hãm tác dụng của hexxokinaza, làm cho đường máu lên
cao.
Hệ thống hạ đường máu, lúc bình thường, trung lập hoá tác dụng của hệ thống tăng
đường máu
Trong bệnh đái đường, vì suy yếu nên hệ thống đường máu không thể trung lập hoá
được tác dụng của hệ thống kia được nữa, cho nên sự rối loạn về sử dụng chất
gluxit; chất gluxit không tiêu thụ hết đã tăng lên ở trong máu, vào nước tiểu,
sinh ra đường niệu.
5. Đề phòng trong bệnh đái đường
Có hai vấn đề:
- Đề phòng biến chứng ở người bị bệnh đái đường
- Đề phòng bệnh đái đường
a. Đề phòng biến chứng ở người bị bệnh đái đường
Cách tốt nhất là điều trị sớm, điều trị tốt.
Điều chỉnh ngay rối loạn chuyển hoá gluxit
Đăng ký, theo dõi người bị bệnh đái đường
Bệnh nhân được biết rõ bệnh mình, cách điều trị, những biến chứng có thể xảy ra,
bệnh nhân phải là người cộng tác tốt nhất của thầy thuốc.
Biến chứng nguy hiểm nhất là hôn mê. Người ta biết những nguyên nhân thuận lợi
như nhiễm trùng (phổi, ngoài da, siêu vi trùng), tiết chế thiếu gluxit cần
thiết, những chấn thương tinh thần, mệt nhọc quá sức, sinh đẻ phẫu thuật.
Thầy thuốc phải cảnh giác và điều chỉnh lại đường máu.
b. Đề phòng bệnh đái đường
Tốt nhất là phát hiện bệnh khi chưa có triệu chứng lâm sàng (préclinque) bằng
những xét nghiệm làm hàng loạt cho tất cả nhân dân.
Chú ý đến con cái người bị bệnh đái đường: Thống kê cho biết từ 25 đến 50% những
bệnh nhân trẻ tuổi có tiền sử đái đường ở bố mẹ.
Chú ý đến người thì nộn (obésité) dễ bị đái đường
Vấn đề hôn nhân: Hai người cùng bị bệnh đái đường không nên kết hôn vì con cái
sẽ bị bệnh đái đường, cũng như hai gia đình có người bị bệnh đái đường không nên
thông gia với nhau.
6. Biến chứng của bệnh đái đường.
a. Biến chứng nhiễm trùng.
Có thể từ những mụn nhọt rất thường, những vết thương bề ngoài không đáng kể đến
nhiễm trùng quan trọng hơn như hoại thư và lao phổi.
(1) Nhọt thường, viêm phổi.
Có thể trở nên rất nặng, lan to và nhiễm rộng, đồng thời tình trạng toàn thân
trở nên trầm trọng hơn vì bệnh đái đường đã chuyển sang nặng.
Nhưng ở đây việc sử dụng thuốc kháng sinh sớm và mạnh đã làm thay đổi hẳn tiên
lượng bệnh. Về Insulin, cho lúc nhiễm trùng hoặc lúc đó tăng thêm liều lượng,
sẽ giúp cho cơ thể kháng nhiễm có hiệu quả hơn.
(2) Bệnh hoại thư.
Thường là thể ướt do vi trùng yếm khí gây ra.
Là biến chứng nguy hiểm nhất vì có khi phải đặt chỉ định phẫu thuật cắt đoạn;
lúc nào cần phẫu thuật và cắt đoạn tới đâu cần phải có ý kiến phối hợp giữa phẫu
thuật viên với nhà chuyên môn.
Kháng sinh có khả năng giải quyết biến chứng này, nên hiện nay rất hiếm
(3) Lao phổi.
Biến chứng này nêu ra vấn đề chế độ ăn uống rộng rãi hơn, nếu cần, có thể cho
bệnh nhân ăn uống tự do và sau đó điều chỉnh đường-máu bằng lnsulin.
Những thuốc thường dùng trong lao phổi và phương pháp điều trị không có gì khác
đối với người bị bệnh đái đường.
b. Biến chứng về thoái hoá.
Tình trạng thoái hoá thường xảy ra ở các động mạch hoặc các bộ phận khác, nhất
là mắt.
(1) Động mạch .
Tình trạng thoái hoá, xơ cứng động mạch xảy ra rất sớm và lan rộng, phát sinh
thêm những biến chứng ở tim, thận, não; chỉ có thể phòng ngừa được bằng một chế
độ ăn uống ít chất mỡ.
(2) Mắt.
Hai biến chứng thường gặp nhất là: Viêm võng mạc và đục nhân mắt.
Cần được điều trị bằng insulin phối hợp điều trị nhãn khoa
c. Biến chứng về thần kinh.
Có thể từ viêm dây thần kinh đơn thuần đến những biến chứng quan trọng hơn như
hôn mê do đái đường.
(1) Viêm dây thần kinh
Nguyên nhân rất khó biết.
Điều trị bằng sinh tố B1 nhưng kết quả thường không được tốt.
Phải đề phòng bằng cách điều trị sớm bệnh đái đường.
(2) Hôn mê do đái đường.
Là biến chứng nguy hiểm nhất, đe doạ tính mạng bệnh nhân bất cứ thể nào, nhưng
thường nhất là thể gầy có máu toan tính.
Vì tính chất nguy hiểm của một biến chứng này nên chúng tôi dành riêng cho một
phần để nói đến.
d. Hôn mê do đái đường (toan-xeton máu).
Xảy ra vào dịp:
- Nhiễm trùng hoặc nhiễm độc nặng.
- Chấn thương tinh thần.
- áp dụng chế độ giảm gluxit quá khắt khe.
- Có khi không có nguyên nhân gì cả.
(1) Lâm sàng.
Hôn mê xảy ra từ từ chứ không đột ngột, và bệnh nhân chỉ lờ đờ chứ không hôn mê
sâu, với các rối loạn:
Về hô hấp.
Nhịp thở Cut-môn (Kussmaul).
Hơi thở mùi axeton.
Về tiêu hoá.
- Nôn mửa nhiều.
- Đi ỉa lỏng
Các rối loạn về tiêu hoá này sẽ phát sinh ra các rối loạn do mất nước .
Do mất nước.
- Da khô và lạnh.
- Lưỡi và môi cũng khô.
Về máu.
- Dự trữ kiềm hạ: Bình thường là 60 thể tích, nó có thể xuống chỉ còn 30.
- Đường-máu tăng nhiều: 3 đến 4 ‰
-Xeton-máu cũng rất cao: Bình thường là 0,001gam đến 0,002g ‰ nó có thể lên đến
1 hay 2 gam.
Về nước tiểu.
Trong nước tiểu có chất tạo xetonic (corps cétoniques), các xét nghiệm Legal với
Na tri nitroprusiat và Gie-ra (Gerhardt) với sắt III clorua (perchlorure de fer)
rất dương tính.
(2) Chẩn đoán phân biệt.
Tóm lại chúng ta có một hôn mê do nhiễm độc vì máu toan tính:
Cơ thể không bài tiết ra hết được các chất tạo xetonic (axit bê ta và an pha
xelonic); tình trạng hôn mê ấy rất nặng vì mất nước và rối loạn điện giải.
Chúng tôi thấy cần nhấn mạnh trong sự chẩn đoán rằng: Không nên nhầm với một hôn
mê do nguyên nhân khác xảy ra ở một bệnh nhân bị đái đường như:
Hôn mê do đường máu hạ:
Có thể xảy ra khi:
- Bệnh nhân được tiêm một liều Insulin quá cao.
- Bệnh nhân ăn uống quá ít đối với liều Insulin thường dùng
Trong trờng họp này chỉ cần tiêm dung dịch glucoza, cho uống nước đường là
khỏi.
Hôn mê do nguyên nhân khác.
Như: Chảy máu não, chảy máu màng não, v.v...
|