Sưng tuyến giáp đơn thuần thuộc về phạm trù "anh bệnh" trong Đông y. Nguyên
nhân phát bệnh là uất giận lo nghĩ, can mất điều đạt, đàm khí hỗ kết ở vùng cồ,
hoặc bởi ở nơi vùng núi uống dùng "nước cát" , thời gian dài đưa đến. Nếu can
uất hoá hoả thương âm, có thể xuất hiện chứng âm thương dương cang, tương
đương với chứng trạng Bazơđô ở y học hiện đại .
ĐIỂM CẦN KIỂM TRA ĐỂ CHẨN ĐOÁN
1. Cổ gáy to, tuyến giáp trạng một bên hoặc hai bên sưng to, chất đó ấn mềm
không đau, có thể theo nuốt mà di động lên xuống, hoặc sờ tới kết đốt to nhỏ
không ngang nhau.
2. Sưng tuyến giáp đơn thuần có đặc điểm địa phương tính, thường thấy ở vùng
núi cách biển rất xa, thường thấy ở nữ giới.
3. Nếu kiêm thấy tim thổn thức, dễ cáu, nhiều mồ hôi, gầy mòn, mất ngủ, hai bàn
tay duỗi thẳng thì rung động, nhãn cầu lồi ra, ở trên tuyến giáp trạng có thể sờ
tới sự rung động, lại nghe thấy tạp âm huyết quản, cho tới tới nhịp tim nhanh
thêm, là chứng tượng của Bazơđô. Tỷ lệ chuyển hoá cơ bản tăng thêm đến +30%
-+50%.
4. Người bệnh Bazơđô nếu khi xuất hiện nhịp mạc nhanh thân nhiệt lên cao, nôn
mửa dữ dội, ỉa chảy, nước tiểu ít, thao phiền không yên, biểu hiện là hình ảnh
nguy của tuyến giáp trạng, nghiêm trọng thì có thể phát sinh hôn mê, choáng
ngất.
PHƯƠNG PHÁP CHỮA
1. Biện chứng thí trị
Đối với sưng tuyến giáp đơn thuần, trị thì phải thư can giải uất, lý khí hoá
đàm là chủ. Nếu thuộc Bazơđô thì ta lấy phép dục âm thanh hoả.
a. Đàm khí uất kết:
Một bên hoặc hai bên cổ gáy ngày càng sưng to, có khi theo tình cảm tốt xấu mà
tăng giảm. Ấn đó mềm giãn không đau, hoặc có thể sờ thấy kết đốt' nói chung
không có chứng trạng toàn thân, hoặc thấy vùng ngực khí buồn bằn, ho khan tiếng
khàn, nuốt khó, mạch thường huyền tế, rêu lưỡi trắng mỏng.
Cách chữa:
Thư can giải uất, lý khí hoá đàm.
Bài thuốc ví dụ:
Tứ hải thư uất hoàn gia giảm.
Hải tảo
3 đồng cân, Côn bố đồng cân,
Mẫu lệ
1 lạng, Hải cáp phấn 4 đồng cân bọc lại,
Hương phụ
3 đồng cân, Sài hồ 1 ,5 đồng cân,
Chỉ xác
2 đồng cân, Hoàng dược tử 4 đồng cân.
Gia giảm:
+ Khí buồn bằn, ho khan, có thể gia Uất kim 3 đồng cân, Trúc lịch Bán
hạ 3 đồng cân, Đại Bối mẫu 3 đồng cân.
+ Tiếng nói khàn câm, gia Xạ can 2 đồng cân.
+ Miệng đắng, rêu lưỡi vàng, gia Hạ khô thảo 5 đồng cân.
+ Sờ có kết đất, gia Đào nhân 3 đồng cân, Nga truật 3 đồng cân.
Hoả uất thương âm: Cổ to, ở trên cục sưng sờ đó có cảm giác rung động, nhãn
cầu lồi ra, sợ ánh sáng, nhìn vật mờ mờ, huyễn vận, bàn tay, ngón tay run rẩy,
mặt hồng, nhiều mồ hôi, phiền thao dễ cáu, tim thổn thức thở gấp. mất ngủ. ăn
nhiều dễ đói, gầy mòn, rêu lưỡi vàng hoặc hoa xanh, chất hóng, mạch huyền hoặc
tế huyền sác.
Cách chữa:
Tư âm thanh hoả, hoá đàm nhuyễn kiên.
Bài thuốc ví dụ:
Sa sâm
5 đông cân, Mạch đông 3 đồng cân,
Huyền sâm
3 đồng cân, Sinh địa 4 đồng cân,
Thiên hoa phấn
5 đồng cân, Hạ khô thảo 4 đồng cân,
Mẫu lệ
1 lạng, Hải tảo 4 đồng cân,
Hoàng dược tử
4 đồng cân.
Gia giảm:
+ Can âm hư rõ rệt, huyễn vận, mắt mờ, hình gầy, gia Câu Kỷ tử 3 đồng
cân, Chích Hà đầu Ô 4 đồng cân.
+ Tâm hư rất nhiều, tim thổn thức, mất ngủ, nhiều mồ hôi, bỏ Thiên hoa phấn,
Hạ khô thảo, gia Thục Táo nhân 5 đồng cân. Ngũ vị tử 1,5 đồng
cân, Đoạn Long cốt 7 đồng cân.
+ Can hoả vượng, Phiền nhiệt, mặt đỏ, dễ cáu, miệng khô đắng, gia Long đảm
thảo 1 ,5 đồng cân, hoặc Đan bì 3 đồng cân, Hắc Sơn chi 3 đồng
cân.
+ Can phong nội động, ngón tay run rẩy, gia Sinh Thạch quyết minh 1 lạng,
Câu đằng 5 đồng cân bỏ vào sau.
+ Lâu ngày huyết ứ úng kết, cục sưng có kết đốt, có gân xanh rải rác, thêm
chừng Đào nhân 3 đồng cân, Hồng hoa 1 đồng cân, hoặc Tam lăng
3 đồng cân, Nga truật 3 đồng cân.
2. Phương lẻ.
a. Hải tảo, Côn bố ngang nhau, rảy nước làm viên, mỗi ngày 3 đồng cân,
phân làm 2 lần uống, mỗi liệu trình 40 ngày, nghỉ giữa khoảng 20 ngày.
b. Hoàng dược tử 3-5 đồng cân, sắc uống, mỗi ngày 1 tễ.
c. Đại Bối mẫu, Hải tảo, Mẫu lệ, các vị lượng bằng nhau, nghiền nhỏ mịn,
mỗi lần uống 2 đồng cân, mỗi ngày hai lần uống.
d. Má lúm đồng tiền cạnh ngoài mép của con lợn (hoặc lúm đồng tiền của
dê, trâu, bò), sấy khô, nghiền bột, mỗi lần uống 1 đồng cân, một ngày uống 3
lần.
Phương lẻ kể trên chủ yếu dùng ở sưng tuyến giáp đơn thuần, cũng có thể dùng ở
Bazơđô.
3. Cách chữa mới.
a. Khiêu châm:
Tay trái cầm nâng cục sưng lên, đùng hào châm to từ vùng giữa nhanh chóng đâm
xuyên qua, sâu vào tới vách bên đối nhanh chóng rút kim, chú ý không đâm hại
động mạch. mỗi ngày 1 lần, từ 7-10 ngày là một liệu trình.
b. Liệu pháp khiêu trị:
Dùng hợp ở Bazơđô, có thể cải thiện chứng trạng và thể chứng. Nói chung mỗi lần
chọn lấy 4 điểm phân riêng ở hai bên khiêu, 5-7 ngày khiêu lại một lần, nói
chung khiêu 3-4 lần làm một liệu trình.
4. Châm cứu.
a. Thể châm:
+ Sng tuyến giáp đơn thuần: Khúc trì, Thiên đột, Hợp cốc.
+ Bazơđô : Nội quan, Hợp cốc, Thái xung
+ Mất ngủ, gia Thần môn, An miên, Tam âm giao
b. Nhĩ châm:
Nội phân bí, Giáp trạng tuyến
THAM KHẢO BỆNH HỌC TÂY Y
1. Bệnh bướu giáp trạng đơn thuần.
Việc điều trị bệnh bướu giáp trạng đơn thuần hiện nay đã tiến bộ rất nhiều.
Trước kia người ta chỉ biết dùng Iôt, nếu không khỏi thì phẫu thuật cắt bỏ
bướu. Bây giờ (1971) mặc dù vai trò của phẫu thuật vẫn còn tồn tại nhưng Iôt
không còn là thuốc độc nhất để chữa bướu giáp trạng nữa, đã có những thuốc
khác, chỉ định điều trị được rõ rệt hơn và hợp lý hơn.
Chúng ta cần phải nắm vững cách điều trị hiện nay, vì bệnh bướu giáp trạng đơn
thuần ở nước ta rất phổ biến, ngày càng nhiều.
Ở miền Bắc, vùng trung du và thượng du, đồng bào mắc bệnh bướu giáp đơn thuần
với tỷ lệ rất cao (30-40%). Bướu ở các vùng đó còn gọi là bướu giáp địa
phương (goitre endémique) nên cần đặt vấn đề công tác phòng chống trên phạm vi
toàn quốc.
a. Định nghĩa.
Bướu giáp trạng là một u của tuyến giáp trạng đơn thuần không có: Triệu chứng
cường hay suy chức phận của tuyến.
- Triệu chứng viêm nhiễm hay ung thư hoá.
Bướu đó có nhiều thể:
- Toàn bộ tuyến.
- Hoặc cục bộ.
Về tổ chức bệnh học, nó có thể phát triển từ:
- Tổ chức nhu mô của tuyến (Goitre parenchymateux).
- Hoặc từ chất keo (Goitre colloide).
Dù là thể nào, dù phát triển từ tổ chức nào, nguyên nhân sinh bệnh của bướu giáp
trạng vẫn duy nhất: Đó là sự bài tiết thái quá kích giáp tố của tuyến yên
(thyréostimuline hypophysaire).
Thường xảy ra cho phụ nữ.
b. Triệu chứng.
(1) Triệu chứng chung.
Đấy là một cái bướu:
- ở ngay trước cổ, chỗ tuyến giáp trạng.
- Di chuyển theo động tác của thanh quản khi bệnh nhân nuốt.
- Da ngoài bình thường, sờ vào không đau.
- Không có hạch bạch huyết kèm theo.
(2) Triệu chứng riêng.
Nếu là bướu toàn bộ tuyến: Cả tuyến to ra, mềm hay hơi cứng, có rung miu và
khi nghe có tiếng thổi liên tục.
Nếu là bướu cục bộ: Chỉ thấy một u nhỏ, tròn, có giới hạn rõ rệt. Khó biết được
u ấy đặc hoặc trong có nước, chất keo hay mau.
Nhưng dù toàn bộ hay cục bộ, cả hai loại bướu đó đều không kèm theo các triệu
chứng toàn thể của cường hay suy tuyến giáp trạng.
c. Biến chuyển.
Về phương diện biến chuyển, u toàn bộ hay u cục bộ chỉ là hai thể, hai giai
đoạn biến chuyển của một bệnh.
(1) Giai đoạn đầu.
Toàn bộ tuyến phản ứng, to ra, có thể hồi phục được nếu điều trị đúng nguyên
nhân.
(2) Giai đoạn sau.
Sau đó sự phản ứng của tuyến chỉ thu hẹp lại ở một hay nhiều vùng nhỏ: Xuất hiện
thể cục bộ. Lúc đó có khi bướu không còn tính cách hoạt động nữa, cứng lại
nhưng không bao giờ mất đi, điều trị nguyên nhân lúc này không còn công hiệu
nữa, chỉ có một cách giải quyết là phẫu thuật.
Do đó ta thấy:
Bướu cục bộ chỉ là một giai đoạn biến chuyển của bướu toàn bộ.
* Hướng điều trị phải tuỳ từng giai đoạn:
- Nếu bướu mới phát sinh: Điều trị Nội khoa
- Nếu bướu phát sinh đã lâu: Điều trị Ngoại khoa.
Muốn hiểu rõ các cách điều trị ấy, chúng ta phải biết nguyên nhân sinh bệnh.
d. Nguyên nhân sinh bệnh
Căn bản nguyên nhân sinh bệnh bướu giáp trạng là thiếu hóc - môn tuyến giáp
trạng tố của tuyến yên (thréostimuline hypophysaire) kích thích tuyến giáp trạng
làm cho nó to ra cho đến khi tỷ lệ thyxorin được điều chỉnh. Nếu hiện tượng đó
kéo dài, các sự thay đổi sẽ trở thành vĩnh viễn và cố định.
Tại sao thiếu hóc-môn tuyến giáp trạng?
Có rất nhiều nguyên nhân, khi khám bệnh phải điêu tra kỹ mới có thể biết được:
- Thiếu Iot ở nước uống, thức ăn (goitre endémique) tức là thiếu nguyên liệu để
tuyến giáp trạng có thể chế biến thành thyxorin.
- Tuyến không tổng hợp được thyxorin vì:
+ Bệnh nhân uống các loại thuốc kháng giáp trạng tổng hợp.
+ Hoặc ăn một vài thức ăn có chất kháng giáp trạng: Cải bắp, đậu nành (ăn trong
thời gian lâu).
+ Tuyến phản ứng lại với tình trạng cường tuyến buồng trứng:
Xảy ra ở tuổi dậy thì (goitre puberaire) hoặc tuổi mạn kinh (goitre puberaire)
đ. Kết luận (của Tây ).
Bướu giáp trạng đơn thuần là một vấn đề khá phổ biến ở nước ta, ngày càng
nhiều. Căn bản là thiếu thyroxin. Cho nên khi mới phát sinh, người ta điều trị
bằng thyroxin. Nhưng khi bướu đã phát sinh từ lâu, đã thành u, thyroxin không
công hiệu nữa mà phải giải quyết bằng phẫu thuật. Cần nhấn mạnh rằng không có
trường hợp nào nên dùng Iot và các thuốc kháng giáp trạng tổng hợp "Iot -
Bazơđô". Iot có tác dụng ngăn ngừa bướu trong trường hợp đặc biệt ở các vùng
núi rừng, nơi mà nước uống, thức ăn thiếu chất Iot.
2. Bệnh Bazơđô.
Việc điều trị bệnh Bazơđô (Basedow) đã thay đổi nhiều trong vòng 10 năm nay, có
những thay đổi quan niệm về cơ chế sinh bệnh mà người ta không cho là một địa
phương nữa mà thấy là một bệnh của hệ thống nội tiết nên đã thay đổi phương
pháp điều trị, thêm cái mới, chỉnh đốn cái cũ. Nhờ có I131, thuốc
kháng giáp trạng tổng hợp, Cocticoit, ngày nay trên thế giới hướng điều trị
bệnh Bazơđô đã nặng về Nội khoa mà nhẹ về phẫu thuật tuyến giáp trạng.
Cho nên để hiểu rõ cách điều trị bệnh Bazơđô, chúng tôi thấy cần phải nhấn mạnh
trong phần "Nhắc lại lâm sàng" những quan niệm mới về cơ chế sinh bệnh.
a. Cơ chế sinh bệnh.
(1) Bệnh Bazơđô không phải là một bệnh địa phương, riêng biệt của một tuyến nữa
vì:
Quan niệm ấy không thể giải thích được tất cả các triệu chứng về lâm sàng.
Và về mặt thực nghiệm, cũng không thể thực hiện được tất cả các triệu chứng nếu
chỉ kích thích tuyến giáp trạng.
(2) Trái lại, nó là một bệnh của hai tuyến nội tiết: Tuyến yên và tuyến giáp
trạng sinh ra do sự mất điều chỉnh giữa hai tuyến ấy.
Người ta biết rằng trong hệ thống tuyến nội tiết, tuyến yên chỉ đạo trực tiếp
các tuyến dưới bằng các kích thích tố, trong đó có một hóc-môn riêng cho tuyến
giáp trạng gọi là kích giáp tố (thyréostimuline hypophysaire). Kích giáp tố sẽ
làm cho tuyến giáp trạng hoạt động và tiết ra thyroxin. Đậm độ thyroxin trong
thể dịch sẽ ảnh hưởng lại tuyến yên: Đậm độ ít thì tuyến yên sẽ tiết ra nhiều
kích giáp tố (thyréostimulỉne) để kích thích tuyến giáp trạng làm ra thyroxin.
Trái lại đậm độ nhiều sẽ kìm hãm bớt tuyến yên tiết ra kích giáp tố. Nói như
vậy, chúng ta thấy rằng giữa tuyến yên và tuyến giáp trạng có một sự liên hệ mật
thiết với nhau, điều chỉnh lẫn nhau, không thể tách rời nhau được. Sự điều chỉnh
ấy mất đi sẽ sinh ra bệnh Bazơđô và tất nhiên cả hai tuyến đều có trách nhiệm
trong sự rối loạn đó cho nên trên lâm sàng chúng ta thấy:
- Các triệu chứng rối loạn tuyến giáp trạng.
- Các triệu chứng rối loạn tuyến yên.
b. Triệu chứng.
Các triệu chứng lâm sàng đã chứng minh rõ ràng quan niệm về cơ chế sinh bệnh nói
trên.
(1) Triệu chứng rối loạn tuyến giáp trạng
- Gầy: Gầy nhanh và toàn thể, càng rõ rệt khi các đợt biến chuyển.
- Nhịp tim nhanh: Thường nhất và bao giờ cũng có. Nhịp từ 100 đến 120 trong một
phút, đều và liên tục.
Chuyển hoá cơ bản tăng: Thường tăng đến + 60% + 80%.
(2) Triệu chứng rối loạn tuyến yên.
Lồi mắt: Tuỳ theo thể lâm sàng mà mắt hơi lồi hoặc lồi nhiều, rõ rệt.
- Run tay: Thường run ở các đầu ngón tay và bàn tay, run đều độ run nhẹ, run
càng tăng khi bị xúc động, sợ hãi.
- Thay đổi tính tình: Dễ xúc cảm, dễ nóng giận, không yên tĩnh, khó ngủ.
- Rối loạn vận mạch: Dễ bốc hoả ở mặt, mặt đỏ rồi tái.
- Tuyến giáp trạng to.
c. Thực nghiệm.
Thực nghiệm lại càng chứng minh quan niệm mới về cơ chế sinh bệnh.
(l) Nếu tiêm tinh chất tuyến giáp trạng hay thyroxin. Người ta chỉ thấy xuất
hiện các triệu chứng tuyến giáp trạng.
(2) Nếu tiêm kích giáp tố (thyréostimuline).
Sẽ thấy xuất hiện một bệnh Bazơđô điển hình với đầy đủ triệu chứng .
d. Căn nguyên bệnh.
(l) Do rối loạn tuyến yên.
Có rất nhiều nguyên nhân như:
- U vùng tuyến yên.
- Viêm não: Có thể để lại di chứng là bệnh liệt rung (Parkinson) cùng với bệnh
Bazơđô .
- Cảm xúc mạnh và các chấn thương tinh thần: 'Thuyết Paplốp đã cắt nghĩa đầy đủ
các nguyên nhân bằng sự liên hệ của vỏ đại não với các tuyến nội tiết.
- Rối loạn về nội tiết tố sinh dục: Khi trong thể dịch thiếu ơxtrogen, tuyến
yên sẽ phản ứng lại bằng cách tiết nhiều gonadotrophin nhưng đồng thời cũng lại
tiết nhiều thyréostimuline nên ảnh hưởng đến tuyến giáp trạng gây bệnh Bazơđô.
Trường hợp ngược lại cũng gây bệnh Bazơđô vì nhiều ơxtrogen trong thể dịch sẽ
làm bớt thyroxin đi, đậm độ thyroxin ít sẽ ảnh h
ư ởng lên tuyến yên làm tăng sự bài tiết kích giáp tố đến một mức nhiều quá gây
ra bệnh Bazơđô.
(2) Do rối loạn tuyến giáp trạng.
Ít nguyên nhân. Có thể là:
- Viêm tuyến giáp trạng (thyroidite).
- Ung thư tuyến giáp trạng.
- U độc tính (adénome toxique) của tuyến giáp trạng.
Thường thường bệnh khởi phát do những rối loạn tuyến yên rồi tuyến giáp trạng
mới phản ứng lại bằng cách tăng kích thích tố và sau đó cứ dần dần lại tự động
không còn chịu ảnh hưởng của tuyến yên nữa.
Trái lại, ít khi bệnh khởi phát do những rối loạn tuyến giáp trạng rồi tuyến yên
phản ứng lại.
đ. Các thể bệnh.
Tuỳ theo sự rối loạn của tuyến nào nhiều hay ít mà ta có các thể lâm sàng.
( 1 ) Thể phối hợp (hay Bazơđô điển hình) .
Vai trò của hai tuyến ngang nhau nếu có đầy đủ các triệu chứng nói trên.
(2) Thể tuyến yên.
Vai trò của tuyến yên quan trọng hơn nên trên lâm sàng thấy nổi bật các rối loạn
tuyến yên, còn các triệu chứng tuyến giáp trạng bị lu mờ, kín đáo.
(3) Thể tuyến giáp trạng.
Trong đó các triệu chứng tuyến giáp trạng nổi bật lên, còn các triệu chứng tuyến
yên rất kín đáo.
Dù nhiều, dù ít, trong các thể bệnh Bazơđô, bao giờ chúng ta cũng thấy có những
triệu chứng của sự rối loạn hai tuyến đó, cho nên đứng trước một bệnh Bazơđô
khi tìm nguyên nhân cũng như khi điều trị, chúng ta phải nhìn thấy rõ hai đối
tượng làm
- Rối loạn tuyến giáp trạng.
- Rối loạn tuyến yên.
|